HẢI ĐĂNG KÊ GÀ

 


 

(Có vài năm gián đoạn vì dịch cúm, và thật ra vì cũng đã tới tuổi mõi mệt, lớp chúng tôi không tổ chức họp mặt hàng năm như trước kia được. Tuy nhiên năm nay các bạn đồng môn Y-Nha khoa Sài Gòn 68-75 đồng ý phải “ráng” một lần nữa (vì không biết sau này còn “ráng” được nữa hay không?!), tổ chức lại buổi họp mặt cuối năm 2023, lần này họp ngay tại chính ngôi trường y khoa ngày xưa. Thường thường sau mỗi lần họp mặt tôi vẫn hay viết một bài để giữ kỷ niệm. Đã có nhiều bài viết như thế nhưng tôi vẫn nhớ nhất bài viết mười năm trước, sau chuyến du chơi La-Gi, Bình Thuận cùng các bạn dịp xuân Nhâm Thìn. Bài viết đó khá dài, kể lể khá nhiều về tâm tình và kỷ niệm của những người bạn lâu ngày mới gặp nhau. Hôm nay tôi chỉ trích ra đây đoạn viết về hải đăng Kê Gà).

 

Gây ấn tượng nhất trong chuyến đi chính là buổi tham quan ngọn hải đăng Kê-Gà với việc ngồi “thuyền thúng” ri chuyển qua ca-nô để ra đảo. Ai cũng “hồ hởi” được dịp ngồi thuyền thúng và hồi hộp khi bấp bênh trong thúng vì sóng gió đập mạnh vào thuyền.




Riêng tôi lại có thêm một cảm xúc lúc cùng các bạn xuống xe, bước trên bãi biển nhìn ngọn hải đăng từ xa oai nghi vươn cao mình trên đảo nhỏ. Khi nhìn cái eo biển hẹp ngăn cách đất liền với hòn đảo có nhiều đợt sóng mạnh trắng xóa tung tóe trong khi ở những chỗ khác biển vẫn lặng êm; tôi chợt nhớ lời kể của một anh bạn mà cha của anh lại chính là người gác ngọn hải đăng này trước kia. Vào những năm năm mươi của thế kỷ trước, mỗi khi cùng mẹ đi thăm cha, anh chỉ là chú bé con nên được bế đặt vào trong một cái thúng để người lớn gánh đi ra đảo. Như vậy ngày xưa vào lúc đó, dãy đất ra đảo, tùy theo thủy triều, có lúc trong ngày chỉ xăm xắp nước, người lớn có thể đi bộ ra được, không như bây giờ lúc nào cũng phải đi ca-nô.

Theo dòng suy nghĩ, tôi hình dung xa hơn nữa. Vào thời gian xây dựng hải đăng trước năm 1890, dãy đất ra đảo này ắt còn là đất liền khiến công nhân thợ thuyền có thể đi bộ thoải mái qua lại giữa công trường và nội địa? Cái tên “mũi đất Kê Gà” đã nói lên điều đó, đâu phải là “đảo” như hiện nay!  



Lên đảo, nhìn gần vào cái tháp hải đăng cao to vững chãi trong sóng gió từ bao lâu nay, tôi thầm phục công trình xây dựng này! Tôi thấy rõ số lượng hàng ngàn viên đá granite được cắt đẽo thành từng cục ngay ngắn thẳng thớm dùng để xây thành vách hải đăng hình tròn cao hơn ba mươi mét, đường kính dưới nền khoảng 3 mét…, lên cao thì hơi nhỏ lại. Tôi cũng thấy khối lượng sắt thép dày dặn nặng nề hàng trăm tấn cần thiết để xây dựng cầu thang xoáy 184 bậc bên trong, từ dưới nền lên đến chóp đỉnh! Tôi nghĩ số lượng quá lớn đá và sắt đó chắc chắn phải được chuyên chở từ nơi khác đến bằng tàu và cũng chắc chắn  những con người tham gia xây dựng phải tốn bao mồ hôi (có thể cả máu) để hình thành ngôi tháp hải đăng này! 

Sau khi leo hết các bậc thang xoắn bằng sắt, tôi ra balcon trên đỉnh tháp nhìn xuống toàn cảnh biến và nhìn dòng nước vỗ vào bờ, tôi mới hiểu tại sao cùng được gọi là “mũi”, nhưng những cái “Mũi Dinh”, “Mũi Né”… gần đó, ngày nay vẫn còn hình dạng cái mũi đất (nhìn trên Google- Earth sẽ thấy rõ) trong khi Mũi Kê Gà chỉ còn là một hòn đảo đá.

Khi đứng trên đỉnh tháp nhìn xuống, tôi thấy phần uốn cong vào của dãy đất hình chữ S tại Bình Thuận, Mũi Kê Gà lại nằm chếch xuống phía Nam, đưa dãy đất ra đảo hứng trọn sóng biển đông. Chính sóng biển Đông “chảy xiết sinh cuồng loạn” (trích trong bài thơ Hồ Trường) hết năm này qua năm khác khiến dãy đất bị quét sâu dần, mất dần. Lâu ngày hòn đảo chỉ còn chóp mũi cao toàn là đá. Nghĩ như thế tôi cũng đã hiểu tại sao lúc nãy khi chiếc ca-nô chạy ra đảo, sóng to dồn dập qua eo biển nhỏ đó đã làm con tàu ngã-nghiêng khiến nhiều người sợ xanh mặt. Phần đảo còn tồn tại ở chóp mũi đảo toàn là những khối đá to cao rắn chắc. Có lẽ vì thế nơi đây đã được chọn làm vị trí xây dựng tháp và cũng vì thế tháp hải đăng vẫn tồn tại vững chắc sau hơn một trăm hai mươi năm chịu đựng phong ba bão táp.

 Cũng trên balcon đỉnh tháp tôi còn nhớ lời anh bạn kể về ánh mắt người cha thường đứng đó hàng giờ đăm-đăm nhìn ra biển cả, cái nhìn thật xa xăm… Người đàn ông hơn hai mươi năm hành nghề gác hải đăng đó, thịt da rắn chắc dần theo những gốc Sứ già trên đảo, đến cuối đời vẫn còn giữ cái ánh mắt, cái nhìn xa xăm ấy.

 

Ngày nay có nhiều du khách đến tham quan du lịch nơi đây làm cho vùng đất mũi Kê- Gà tấp nập và có sinh khí. Ít ai biết trước kia nó hoang sơ như thế nào. Hãy đọc vài vần thơ của chính bà vợ người gác hải đăng trên. Bà vốn là một nữ sĩ, trong một lần (cả năm mới có một lần) từ miền quê vùng Tây Nam bộ xa xôi ra thăm chồng, đã từng cảm khái trước cảnh buồn hoang vắng nơi đảo xa:

Chiều nay trên đảo Kê Gà

Quạnh hiu chẳng có ai là bạn thân

Buồn trông mây phủ non tần

Mịt mờ sương tỏa muôn phần đìu hiu…

                               (Hoàn Thi Liên, tháng 2 / 1957)

Khi bước xuống ca-nô để lên bờ trở về, trời chiều đang tối dần. Đèn hải đăng bắt đầu được thắp sáng như đưa tiễn khách phương xa. Ngọn đèn hai ngàn watt vẫn chớp tắt theo vòng quay chậm chạp, vẫn vàng vọt như từ hơn trăm năm nay, đâu thể sáng chói rực rỡ như những ngọn đèn cao áp hiện nay. Tuy nhiên tôi nghĩ rằng nó vẫn truyền đi thông điệp ấm áp tới những thủy thủ đang lênh đênh ngoài biển cả, giúp họ an tâm rằng mình đang đi không lạc hướng và  nhất là không cảm thấy cô đơn… vì biết rằng vẫn có những con người đồng loại còn đang sống đâu đó quanh đây, tuy rất quạnh hiu nhưng hàng đêm, theo bổn phận (và cả theo lương tâm) vẫn nhớ đến để thắp lửa đốt đèn dẫn đường cho họ.

 


Đồng thời tôi lại liên tưởng đến một đêm cách đấy hơn bốn mươi năm lúc ở trên một chiếc tàu hải quân đưa đoàn sinh viên học sinh đi trại hè trên hòn đảo Bích-Đầm ngoài khơi biển Nha-Trang. Khi tàu từ Sài Gòn ra cửa biển Vũng Tàu đi ngang nơi này, một thủy thủ chỉ cho tôi ngọn đèn vàng đang chớp tắt xa xa trong đất liền và nói: “Hải đăng Kê-Gà”! Chỉ nói bấy nhiêu thôi, anh ta đăm đăm nhìn về hướng ngọn đèn. Không biết anh đang suy nghĩ gì?! Riêng tôi, nhìn khoảng trời tối đen của vùng đất có ánh đèn, tôi nghĩ tới sự cô đơn của người gác hải đăng không quen biết!


Chiều nay, trên đường về tôi vẫn thấy ánh đèn vàng yếu ớt đó đang tiếp tục đem ánh sánh vươn tới những con tàu ngoài xa khơi… Tôi nhớ chuyện anh bạn kể về người cha, người gác hải đăng xưa có cái nhìn xa xăm ra biển cả…

(Tháng 1/2012)

Nhận xét

  1. Tôi có đăng bài này trên FB của tôi (Bacsi Suu) và nhận được nhiều comment rất hay!

    Trả lờiXóa

Đăng nhận xét