NHỚ VỀ THỜI THƠ ẤU CỦA TÔI

 





(Tôi là con trưởng trong một gia đình lao động thủ công nghèo ở Sài Gòn. Mỗi ngày anh em tôi có tham gia làm việc phụ giúp cha kiếm sống cho gia đình. Tuy vậy ba má tôi vẫn quyết tâm khuyến khích, thúc ép các con học và vẫn nhắc nhở chúng tôi đó là con đường quan trọng nhất để thoát nghèo, để ra khỏi kiếp sống cực khổ của gia đình mình cũng như của những gia đình khác trong xóm. Cũng may là tôi siêng học và chịu đọc sách để mở mang kiến thức nên cuộc đời tôi sau này có bước ngoặt “đi lên”, không như đa số các đứa trẻ gia đình nghèo khác trong cùng xóm Sau Mả. Trong xóm đó và tại gia đình đó tôi có nhiều kỷ niệm thời tuổi thơ. Hôm nay nhớ gia đình xưa, tôi kể lại vài câu chuyện trong số nhiều câu chuyện mà tôi có viết trong quyển “Phả Ký họ Khương” để chính tôi đọc lại và cũng để các con (và cả các cháu) của tôi đọc lúc nào rảnh rang).

 

Lúc tôi còn nhỏ, gia đình tôi là gia đình lao động thủ công với nghề làm cặp-táp bằng da trâu cho học trò đựng sách vở đi học (thời ấy các công-tư chức và người khá giả thì xách cặp da bò). Trong nhà, bố tôi vừa là thợ chính vừa là ông chủ nhỏ của cái “xưởng thủ công gia đình” đó. Tuy nhà có nuôi hai-ba thợ giúp việc nhưng cả má tôi và các anh em tôi (trai lẫn gái) đều phải bắt đầu tham gia lao động sản xuất khi tuổi chưa đến mười. Tôi là anh cả nên phần tham gia hơi nhiều. Mỗi ngày ngoài một buổi đi học tôi đều ngồi vào “xưởng thợ” chừng hai-ba tiếng để làm chung một số việc với thợ phụ. Em gái ngay sau tôi tên Cúc có sức khỏe nên cũng làm một số việc nhưng nhẹ hơn. Cô em gái thứ hai, sau Cúc, tên Thủy hay bệnh nên chỉ làm việc vặt. Còn cậu em trai út tên Đạt thì được cưng nhất nhà nên gần như rất ít lao động, ngoài giờ học còn có thừa thời giờ để đi hướng đạo sinh và học đàn! 



Trong cái xưởng gia đình đó, bố tôi là người chỉ huy chuyên môn, là ông thợ cả, phải làm những công đoạn khó khăn, phức tạp nhất để hinh thành cái cặp. Nhưng thật ra người “lu bù” công việc, “đầu tắt mặt tối” nhất nhà lại là hai phụ nữ. Một là má tôi được phân công “độc quyền” là người đem hàng mới làm xong ra chợ bán. Bà thường đem hàng đi bán sỉ và bán lẻ ở vùng Chợ Lớn và Chợ Lớn Mới (chợ Bình Tây). Bán xong vừa về tới nhà bà lại lao ngay vào công việc lao động sản xuất hàng ngày. Đến gần giờ ăn mới vội vã quay sang việc bếp núc phục vụ cả gia đình và thợ thuyền. Vì thế những việc thuộc về nội trợ khác má tôi làm vào buổi tối và thường khi phải tới khuya mới xong. Người thứ hai là em gái tôi tên Cúc phải tiếp mẹ suốt ngày trong các việc mua thức ăn, bếp núc, giặt giũ, quét dọn nhà và cả trong việc làm của thợ phụ…nên không có thời giờ đi chơi hay giải trí. Về chuyện học, Cúc chỉ đậu tới bằng Tú Tài I (tôi và em Thủy tốt nghiệp đại học) rồi xin được việc làm thư ký đánh máy ở một công sở, lúc đó mới thoát được cuộc đời lao động. Bố tôi tuy là thợ chính, chỉ huy công việc và trực tiếp làm các công đoạn phức tạp cần sự khéo léo nhất nên phải lao động cực khổ suốt ngày. Nhưng bù lại vào buổi tối và ngày chủ nhật bố tôi có thời giờ rảnh rang đọc báo, nghe radio (sau này mới có TV để xem) hoặc ra ngõ ngồi tán chuyện với các ông hàng xóm, hoặc thỉnh thoảng chơi “đánh chắn” (dùng quân bài “tổ tôm”) với vài ông bạn đồng nghiệp ngành thợ da cũng người gốc Bắc (trước di cư 54). Riêng tôi tuy có mất thời giờ cho việc làm của gia đình nhưng có lẽ nhờ khá “sáng dạ” nên học bài và làm bài của trường mang về nhà rất nhanhVì thế tôi cũng có được ít thời giờ đọc sách hoặc đi chơi giải trí vào buổi tối và nhất là vào ngày chủ nhật.






     
Trong việc làm thường ngày, mỗi sáng ba tôi tính toán kỹ để cắt số da trâu mua về (tấm da đã “thuộc” của cả con trâu), phân thành đủ bộ phận cho khoảng ba mươi cái cặp mà cả nhà sẽ ráp lại bằng cách dán kếp (crêpe, keo dính làm bằng cao-su) rồi may máy (máy may Sinco) để hoàn thành xong những cái cặp vào năm giờ chiều (số lượng cặp sản xuất hàng ngày đó đem đến vừa đủ thu nhập để gia đình sống và các con ăn học đàng hoàng). Sáng hôm sau ba tôi dậy sớm để đến khu người Hoa ở Phú Thọ (gần trường đua ngựa) mua tấm da trâu mới, vừa đủ làm trong ngày (sau này khi đã đủ lớn, thỉnh thoảng chính tôi đạp xe đi mua da trên đoạn đường năm-sáu cây số đó). Cùng lúc, má tôi gói số cặp-táp đã hoàn thành chiều qua trong một bao vải (khá cồng kềnh) để đem ra chợ bán. Bán sỉ ở Chợ Lớn không hết thì má tôi phải đem đi bán lẻ ở các chợ khác (vẫn là bán cho người Hoa), thường là cũng tại Sài Gòn hay các tỉnh gần Sài Gòn. Tuy nhiên lắm khi bà phải xuống tận Sóc Trăng, Bạc Liêu mới bán được hàng. Do đó có lúc bà phải đi hai ba ngày mới trở về! Phải biết vào thời buổi đó đường sá xe cộ lưu thông khó khăn nên mỗi khi đi bán xa, bà thường phải ôm gói cặp-táp ngồi ngủ vật vạ qua đêm ở các bến xe đò lục tỉnh. Như vậy thơ thuyền “khỏe” hơn ông bà chủ, họ có thể thức dậy trễ rồi tà tà ăn sáng uống cà-phê, đến sau 8 giờ mới bắt đầu làm việc!


 

Khoảng năm 1963, sau khi TT Diệm bị lật đổ, những người trẻ tuổi có dịp “ăn theo”! Nếp sống văn hóa xưa bị “chê”. Làn sống mới ào ạt nổi lên theo các phong trào của giới trẻ quốc tế, nhất là các phong trào học sinh, sinh viên, thợ thuyền Pháp và phong trào Hippy Mỹ. Học trò lúc ấy cảm thấy “có quyền” hơn, “tự do” hơn, không còn phải sợ các thầy Giám Học hay Tổng Giám Thị như trước. Họ thấy không cần phải “theo phép”, theo “lễ nghi kỷ cương” cũ, bắt đầu đi học một cách nghênh ngang, tóc tai để dài, quần ống túm rồi ống loe theo thời, có khi không còn giữ đúng quy chế đồng phục nữa. Đó là chuyện của toàn xã hội, nhưng tai hại riêng cho chúng tôi vì họ không cần xách cặp-táp nữa, Mỗi khi đi học họ đơn giản chỉ cầm vài quyển tập và sách trên tay, hoặc cho tập sách vào một thứ xắc nhỏ đơn giản bằng vải đeo trên vai đề đến trường. Phong cách đi học cứ như đi chơi! Vì thế khi muốn rủ rê nhau “cúp cua” vào xem ciné permanent (rạp chiếu phim thường trực) thì họ chỉ có việc đút tập vở vào túi quần là được rồi! 

Dó đó cái cặp táp bằng da trâu lúc ấy trở nên là một thứ thể hiện tuổi “con nít” và “cổ lỗ sĩ” không thức thời! Vì thế việc làm nghề của gia đình chúng tôi ế ẩm dần. Đúng lúc này ba tôi lại bị bệnh, phải mổ cắt bao tử, sau mổ còn phải nằm nghỉ dưỡng bệnh khá lâu vì sức khỏe suy yếu. Không có thợ chính, thế là cả nhà tôi thất nghiệp. Má tôi và em Cúc mỗi ngày phải đẩy xe thùng ra đầu ngõ bán nước đá bào, đậu đỏ bánh lọt, bánh mì thịt, xôi, bánh bột cho học trò. Nói chung bán rất nhiều thứ, cứ bán thử một thời gian thấy không được thì lại xoay sang bán thứ khác!

Trong những năm đó, tôi đang học tại trường Pétrus Ký. Tiền ăn, tiền học, tiền sách vở… của tôi lúc này đều nhờ vào sự lao động phơi mưa, phơi nắng của má tôi và cô em gái Cúc của tôi đang ở độ tuổi 12 - 13.

Mãi đến năm 1966 - 67 khi quân đội Mỹ vào Sài Gòn ngày càng đông, nhu cầu xài va-li đựng quần áo và đồ dùng cá nhân tăng cao. Ba tôi theo thời, lại kéo cái máy may ra “hành nghề”, làm va-li bán cho lính Mỹ, bỏ hẵn nghề làm cặp-táp cho học trò. Tình hình kinh tế gia đình nhờ thế khả quan hơn đôi chút!

Sau năm 1975, các hoạt động kinh tế cá thể bị đóng cửa. Em gái tôi cũng bị cho nghỉ việc. Mỗi sáng sớm má tôi lại nấu thúng xôi đem ra chợ Sở Rác gần xóm để bán. Tôi đã ra trường nhưng phải đợi nhà nước phân công nên anh chàng bác sĩ trẻ vẫn ăn bám mẹ. Giữa năm 1977 tôi được phân công về Long Xuyên (cũng như các bạn đồng môn của tôi được phân công về các tỉnh khác). Được hưởng mức lương tập sự 80% của sáu mươi đồng tiền miền Bắc, tôi không gửi được bao nhiêu tiền về nuôi cha mẹ và các em nên má tôi mỗi sáng vẫn bán xôi. Mãi đến sau 1980, nhờ chủ trương “thoáng” hơn, tôi được phép “lén lút” làm tư thêm ngoài giờ làm việc ở bệnh viện. Nhờ thế tôi có dư dả đồng tiền để gửi về gia đình, lần lần má tôi không cần phải bán xôi nữa!

(Trích từ “Phả Ký họ Khương” viết năm 2002)

 


TB: Bố tôi mất năm 1995, má tôi mất sau đó 14 năm. Ngày không còn cả cha lẫn mẹ, tôi viết hai câu đối:

Công dưỡng dục xa rồi nơi non thái

Nghĩa sinh thành lánh mãi chốn từ huyên





Nhận xét