NHỚ VỀ BỐ TÔI

 


(Bố tôi người làng Đại Thượng, xã Đại Đồng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Tôi trích ra đây một phần bài viết từ quyển “Phả Ký họ Khương” đoạn “Di Ngôn cho hai conmà trong đó tôi có viết về bố tôi Mục đích tôi trích đoạn di ngôn này là để đăng trên trang Blog cá nhân của tôi do nghĩ rằng khi đã đăng lên Blog thì sẽ dễ tìm đọc hơn so với cách đọc trực tiếp bảng chép tay trên quyển Phả Ký. Tôi cũng nghĩ rằng khi bài viết ở trên Blog, những lúc rảnh rang hai con tôi (và cháu của tôi sau này) sẽ dễ tìm đọc hơn trên mạng)

 

Ông nội (của hai con) từ Bắc Ninh bỏ làng vào Nam tìm việc làm khoảng năm 1941 lúc tình hình đói kém ngoài ấy trầm trọng. Vào đến Sài Gòn ông lang thang làm đủ nghề để kiếm sống. May thời học được nghề da, làm thợ may va-li cặp-táp… rồi sau đó gặp bà nội từ Quảng Châu Văn bên Tàu (đang hành nghề hộ sinh sau khi tốt nghiệp ở Hà Đông, gần Hà Nội) bỏ chạy về lại VN khi máy bay Nhật thả bom tàn sát các thành phố Trung Quốc. Sau khi lấy nhau khoảng năm 1946, hai ông bà mướn một căn nhà nhỏ vách ván, lợp ngói âm dương, tráng xi-măng… sâu trong cuối một con hẻm đường Nguyễn Tấn Nghiệm (sau đổi tên là Phát Diệm, nay là Trần Đình Xu) thuộc một dãy nhà được cất để cho thuê mà bà chủ phố (chủ dãy nhà) cũng ở gần đó, trong một căn nhà lớn và đẹp hơn ở ngoài đường lộ, gần đầu hẻm. Đất của dãy nhà cho thuê nằm ngay sát một khu nghĩa địa tư nhân mà cả hai khu đất nhà ở và nghĩa địa này đều do một ông người Việt dân Tây làm chủ. Như thế cũng đủ hiểu là dân trong xóm đều nghèo, phải ở nhà thuê của bà chủ phố trên đất nghĩa địa mà bà chủ phố thuê của ông chủ đất! Vậy mà từ đó tại ngôi nhà trong xóm nhỏ này (bọn trẻ con gọi là xóm Sau Mả) ông nội bắt đầu xây dựng gia đình; mua sắm máy may, dụng cụ, sản xuất và tìm chỗ tiêu thụ sản phẩm; tự mình làm chủ một cơ sở tiểu công nghệ gia đình nhỏ không đi làm thợ cho người khác nữa.



Cả gia đình đó gồm vợ chồng chủ nhà, một (có khi vài) người thợ phụ, con trai con gái của chủ nhà, cùng tận lực lao động sản xuất trong hơn 20 năm… cũng vừa có đủ ăn đủ mặc, đủ chi phí cho các con được học hành, và cũng đủ tiền mua lại cái nhà không phải ở thuê nữa... không như một số gia đình khác trong xóm suốt cả đời chỉ ở thuê ở mướn! Trong gia đình đó, hai người con được sinh ra trước là bố và cô Ba Cúc, ngoài giờ học đều phải tham gia lao động từ năm 7-8 tuổi. Bố nhớ đến năm 10 tuổi thì bố đã ngồi thành thạo trên bàn máy may để may vài công đọan của cái cặp táp bằng da trâu rất cứng. Đến năm 14 tuổi thì bố đã gần như là một người thợ lành nghề. Cô Ba Cúc cả ngày ngồi làm những công đoạn lặt vặt nhưng tỉ mỉ, ngoài ra còn giúp mẹ chuyện bếp núc. Chỉ đến cô Tư Thủy thì hơi khác, ít phải tham gia lao động hơn (vả chăng cô lại hay đau yếu). Riêng chú Đạt là con trai út, được chơi nhiều hơn làm!

 

Khi người Pháp trở lại VN sau thế chiến, có lần do bọn “bao bố” (làm chỉ điểm cho mật thám Pháp) gật đầu một cách “thí đại” theo luật rừng của thực dân lúc ấy, ông nội đã bị mật thám bắt vào bót Catinat và bị tra khảo nhiều ngày bằng nhiều cách trong đó có cách đổ xăng lên lưng đốt. Sau này mỗi khi ông nội cởi áo, bố vẫn thấy vết phỏng khá rộng trên lưng ông nội. Ông nội có làm chính trị làm cách mạng gì đâu nên có biết gì để khai báo …! Tra tấn nhiều ngày chẳng khai thác được gì, chán rồi họ cũng phải thả ông nội - thả ra một thân thể thừa chết thiếu sống ! Bà nội phải chăm sóc chồng thật tận tụy suốt hơn sáu tháng ông nội mới bình phục.

Sau năm 1975, dưới chế độ XHCN mọi sản xuất cá thể đều không được phép. Ông nội và những người làm ngành da cũng như nhiều ngành thủ công hay tiểu công nghệ khác… phải vào Hợp Tác Xã. Không quen với cung cách làm ăn tập thể, không được cung cấp đủ nguyên liệu và cũng chẳng có đầu ra cho sản phẩm… nên chẳng bao lâu các Hợp Tác Xã trên đều tê liệt. Có ai đâu xa xỉ bỏ tiền ra mua va-li, cặp-táp?! Học trò tập sách cứ cầm trên tay hay xếp vào bao nylon khi đến trường thì cũng tiện! Ai đi xa cần đem theo quần áo tư trang thì cứ nhét một vài bộ vào túi xách đeo trên lưng như ba-lô; vừa gọn vừa thích hợp với thời đại, khỏi phải xách va-li để bị người khác đánh giá là kiểu cách tiểu tư sản, trưởng giả...! Lúc ấy những thứ mà con người cần đã bị giảm xuống mức tối thiểu. Cái mà mọi người thực sự cần lúc ấy chỉ là những nhu yếu phẩm được nhà nước phân phối theo chế độ! Mỗi tháng công nhân viên chức ai cũng ngong ngóng, bỏ cả công việc ngồi chờ giờ được phân phối hàng. Nói chung ai cũng nghèo nên tuy với số lượng nhu yếu phẩm được phân phối rất ít theo chế độ cho mỗi người, nhưng hầu hết ai cũng phải cân nhắc tính toán tách ra một phần nhỏ bán đi kiếm thêm chút tiền, phần còn lại mới đem về cho gia đình xài!

Trong tình cảnh đó, ông nội đành bán rẻ cái máy may (hiệu Sinco) và dụng cụ hành nghề để gia đình có thể lây lất sống qua ngày! Thế là ông nội thất nghiệp! Bà nội mỗi sáng nấu một thúng xôi ra ngồi bán tại đầu hẻm Sở Rác (đối diện Xóm Sau Mả). Bố thường thấy ông nội nằm trên giường quay mặt vào tường, thở dài sườn sượt, than van bệnh tật, mỗi bữa chỉ ăn một chén cơm...


 

Giữa năm 1977 bố được phân công về làm việc tại tỉnh An Giang với đồng lương rất eo hẹp nên mãi đến sau năm 1980 mới có được đồng tiền gửi về góp phần nuôi cha mẹ và các em. Tiền bố có được vì nhà nước bắt đầu cho phép bác sĩ “lén lút khám bệnh tư (lúc ấy nhà nước chưa chính thức cho phép các hoạt động tư nhân!). Đến khi những đồng tiền đó được bố gửi về đều đặn hàng tháng cho cha mẹ thì bà nội mới ngưng việc thức khuya dậy sớm với thúng xôi. Ông nội đỡ thấy sĩ diện hơn (vì được sống bằng tiền của đứa con làm bác sĩ, không phải sống bằng những thúng xôi của vợ!). Cũng may là đúng lúc này cả ông bà nội đều đã già yếu cả rồi, xấp xỉ tuổi 65, không còn sức để làm việc gì kiếm ra tiền!

 

Cuộc sống của ông nội cũng gần như cuộc sống của những người lao động nghèo, ít học trên đất nước ta lúc ấy. Họ tận lực suốt đời vì gia đình vì con cái với tình thương vợ thương con vô bờ nhưng ít khi biểu lộ ra bên ngoài.  Ông nội làm việc quần quật mỗi tuần sáu ngày không rượu chè, trai gái, cờ bạc. Ông chỉ có niềm vui với ấm thuốc lào… nhưng về sau cũng phải bỏ vì ho nhiều do hút thuốc. Ông phải đập bỏ ấm điếu nhiều lần mới bỏ thuốc lào được đấy! (Một trong những lý do khiến bố không hút thuốc lá có thể vì lúc nhỏ bố chịu không nỗi mùi thuốc lào và cái mùi hôi thúi rất khó chịu của những cái ấm nước thuốc lào bị vỡ do ông nội đập vì muốn bỏ thuốc).

Thú tiêu khiển gần như độc nhất của ông nội là sau sáu ngày lao động vất vả, ông đợi ngày chủ nhật để dẫn bố đi xem phim. Xem xi- nê ở những rạp bình dân. Cả ông nội và bố đều không thích xem phim có ca vũ nhạc của Ấn Độ mà chỉ thích xem phim cao bồi Mỹ. Phim Ấn Độ thì có những rạp chiếu riêng. Phim Mỹ thì có những rạp chiếu riêng. Ông nội và bố chọn xem phim cao bồi Mỹ chiếu tại rạp Long Duyên gần khu Dân Sinh chợ Cầu Ông Lãnh. Thật ra bước đầu ông nội tập tành thú xem phim là vì chiều lòng bố. Lúc bố bảy-tám tuổi, các phim cao bồi Mỹ nói tiếng Pháp và phụ đề tiếng Việt rất thường được chiếu tại các rạp xi-nê Sài Gòn. Khác nhau ở chỗ các rạp lớn sang trọng mới có thể chiếu phim mới sản xuất với giá vé rất đắt. Một thời gian sau các phim này mới được chiếu tại các rạp nhỏ, bình dân, giá vé rẻ hơn nhiều.

Thời đó bọn học trò tiểu học như bố đã có thể nhớ mặt và thuộc lòng tên các tài tử đóng phim cao bồi như Randolph Scott, Robert Taylor, Gary Cooper, Kirk Douglas, Burt Lancaster… nên khi các bảng quảng cáo phim cao bồi có mặt các tài tử trên là bọn trẻ nao nức chờ đến khi phim được chiếu ở các rạp bình dân. Lúc đầu ông nội đâu biết phim cao bồi ra sao nhưng vì bố vòi vĩnh nên ông nội phải dẫn đi xem… Riết rồi ông nội trở nên mê phim cao bồi hơn cả bố! Thường là sau khi xem phim xong hai cha con ra đứng ăn kem của một chú người Hoa đẩy xe bán kem trước cửa rạp xi-nê. Thuở ấy được đứng ăn một ly kem trên vệ đường như thế là giây phút quá tuyệt vời đối với bố. Học trò chỉ đủ tiền ăn cà rem cây (đông đặc) bán trước cổng trường thôi! Nhiều lúc bố rất muốn ăn ly kem thứ hai mà không dám đòi vì bố thấy chính ông nội cũng ngần ngừ muốn ăn thêm mà không dám gọi. Long Duyên là một rạp chiếu phim cho giới bình dân, giá rẻ nhưng vẫn có máy lạnh, cả ngày chiếu thường trực, không chiếu theo suất. Khán giả mua vé vào xem bất cứ lúc nào và muốn ra lúc nào cũng được. Mỗi ngày rạp chiếu hai phim liên tiếp nhau từ sáng tới tối, đều là phim cao bồi! Như vậy mua một vé thì được xem cả hai phim. Xem rồi chưa muốn về thì cứ ngồi ngủ luôn trên ghế cho mát – dân nghèo đâu dễ gì có cơ hội ngủ trong phòng có máy lạnh!

Chỉ có một lần duy nhất; buổi chiều khi đi học về bố thấy ông nội vui vẻ ngồi nhậu bia Con Cọp (Bière Larue) với bốn-năm ông hàng xóm tại quán phở bình dân trước ngõ, có cả ông chủ quán. Nhậu xong mạnh ai nấy bỏ về vì đâu có ông nào đủ tiền trả. Sáng hôm sau chủ quán đưa biên lai đòi ông nội trả tiền vì các ông kia không ai chịu trả và đồng thanh nói rằng chính ông nội đã lên tiếng mời trước. Bố mở ngoặc chỗ này để lưu ý rằng lúc ấy văn hóa kiểu Mỹ - tuy ngồi ăn uống chung nhưng mạnh ai nấy trả tiền - chưa xâm nhập vào nếp sống của quần chúng. Người mình còn “chơi” theo kiểu Pháp, ai lên tiếng mời thì người đó sẽ (phải) trả tiền. Bố xem biên lai thấy ghi mười hai chai bia, không có đồ nhậu (nhưng có lẽ chủ quán cũng phải có đãi một ít xương súp phở!). Ông nội dám một lần “chơi bảnh”! Số tiền mười hai chai bia bình dân đó khá lớn đối với dân xóm nghèo. Bà nội nuốt nước mắt đếm tiền trả và đay nghiến ông nội. Cũng nên biết bố đi học một buổi, ở nhà lao động một buổi cho đến tuổi mười lăm mới được bà nội phát “lương tuần” vào mỗi chiều thứ bảy với số tiền vừa mua đúng được hai chai bia con cọp. Bố còn nhớ giá chai bia lúc ấy vì mỗi tối thứ bảy, sau khi lĩnh tiền, bố hay đến nhà bác Phi rủ bác ấy đi uống bia ngay tại ngã tư Nguyễn Tri Phương – Bà Hạt. Hai anh em bạn uống chung một chai bia con cọp giá 50 đồng; phân nửa phần tiền còn lại cũng là 50 đồng, bố để dành xài cả tuần. Trả tiền cho một buổi nhậu như thế của chồng là quá sức đối với bà nội. Suốt cả tuần sau ông nội im lìm cắm cúi làm việc, xấu hổ không dám ngẩng đầu nhìn vợ con! Tội nghiệp ông nội cả đời chỉ phung phí mười hai chai bia hạng bình dân không có món nhậu! Nếu chia đều ra thì riêng ông nội chỉ uống hai-ba chai! Viết đến đây bố muốn rơi nước mắt mỗi khi nhớ ra rằng lúc bố đã có thể phung phí rất nhiều tiền uống bia xịn hiệu Tiger, Heneiken…thì ông nội không còn sức nữa để bố mời đi uống bia ngon và ăn các món nhậu đặc sản mà trước kia ông nội có bao giờ dám ăn.

Ông nội ít học. Lúc nhỏ chỉ được học vài năm (chữ Hán) với thầy đồ trong làng, đến khi lớn vì nghèo nên ông cũng đâu có sách báo (chữ Quốc Ngữ) để đọc, vì thế chữ nghĩa càng nghèo thêm. Buổi tối ông nội thích qua nhà hàng xóm để nghe radio (đặc biệt là nghe đài BBC) những tin tức chiến sự và thời sự… nên kiến thức chỉ lẩn quẩn quanh những bài mà đài phát thanh đã bình luận. Khi bố bắt đầu đủ lớn để tìm hiểu việc này việc nọ thì ông nội đã khó thể trả lời được những thắc mắc của bố, dầu về chuyện học hành hay cũng như sau này, về chuyện đời. Đến khi bố đã bắt đầu suy tư và tiêm nhiễm một số ý tưởng của triết gia phương Tây thì bố càng thấy mình xa cách với cha nên thấy không có gì phải tâm tình hay hỏi han ông nội nữa! Rất nhiều thanh niên thời ấy cùng hoàn cảnh giống bố thường theo thời lên giọng oán trách bố mình chỉ biết nuôi con phần vật chất, còn phần tinh thần chẳng cho con được gì! Bố cũng đã từng nghĩ như vậy! Chỉ đến khi chính hai con đến tuổi thành niên bố mới biết suy nghĩ như thế là sai!

 

Viết đến đây, bố thấy cần phải nói rõ thêm về những giao động trong tâm trạng và tâm lý tuổi thanh thiếu niên thế hệ của bố. Bọn bố đã được sinh ra và lớn lên trong giai đoạn có rất nhiều biến chuyển về chính trị văn hóa xã hội rất quan trọng của đất nước, do đó tư tưởng, quan niệm sống và lối sống của thanh thiếu niên (nhất là giới thanh niên thành thị) miền Nam biến chuyển rất nhiều.

Từ cuối những năm ba mươi của thế kỷ trước, tuy những nhà văn thuộc nhóm Tự Lực Văn Đoàn và những người có tư tưởng duy tân cách mạng đã hô hào đổi mới, đả phá cái cũ, mục đích là mở mang dân trí… nhưng hầu như phong trào chỉ có tác động đối với một số người thuộc tầng lớp có học, có ít nhiều suy tư. Đa số người dân (cũng như ông bà nội) với trình độ học vấn và kiến thức thấp, chỉ quen với lối sống xưa và vẫn tuân theo khuôn phép cũ …; tệ hơn, còn tuân theo khuôn phép của người dân nước bị trị! Đến đầu thập niên năm mươi, đã là lúc chấm dứt thời thực dân, mà xã hội thời tuổi thơ của bố cũng vẫn còn gần giống thế. Nề nếp xã hội còn khe khắt, trật tự kỷ cương cũ còn chặt chẽ. Trong gia đình và học đường, người cha, người thầy và ông đốc học…là những người có uy quyền tuyệt đối đối với trẻ em; đứa trẻ nào cũng sợ tiếng quát nạt và cây roi của người lớn. Quan hệ giữa người lớn và trẻ con chỉ là quan hệ để ra lệnh, để răn đe chứ ít khi để tìm hiểu, để thông cảm, để hướng dẫn…  Do đó về tình cảm, con thường sợ cha hơn là thương cha! Ngoài xã hội, quan chức nhà nước vẫn là “phụ mẫu” và ông tổng thống thì được coi như một ông “vua”! Người dân vẫn sợ chính quyền chứ chưa biết được chính quyền là “của dân”… như sau này!

Tuy nhiên trong tuổi học trò của bố; qua các tiểu thuyết luận đề cuả nhóm Tự Lực Văn Đoàn cổ vũ sự đổi mới, qua các tạp chí văn nghệ (có khá nhiều) phổ biến trào lưu văn học lãng mạn hiện thực hay những trào lưu triết học hiện sinh phương Tây… tinh thần cá nhân và tư tưởng tự do ảnh hưởng rất mạnh đến giới thanh thiếu niên và trí thức thành thị. Bố có cơ hội tiêm nhiễm những ý thức mới, những quan điểm mới… nên bắt đầu mạnh dạn biểu lộ sự đối kháng với người lớn. Có một hôm ở tuổi mười lăm, bố đã lần đầu tiên bày tỏ sự phản kháng bằng lý luận với ông nội, chỉ nhẹ nhàng thôi nhưng cũng đủ để ông nội bực mình nạt ngang: “…học đòi trứng khôn hơn rận!”.



 Thật ra chính những chuyển biến xã hội chính trị cụ thể mới tạo cơ hội cho giới trẻ vốn nhút nhát như bọn bố có cơ hội “thức tỉnh”! Năm 1963 cuộc đảo chính giết chết Tổng Thống Diệm giống như một hành động bứt phá xiềng xích cho giới trẻ. Từ đó người ta nói nhiều hơn về tự do cá nhân. Giới trẻ thích và tập tành sống theo trào lưu Hippy…Từ Pháp, các phong trào sinh viên từ 1965 đến “phong trào tháng năm 1968” đòi cải cách đại học và đời sống thợ thuyền, phản đối chiến tranh… lan ra khắp Âu Châu và Mỹ bằng đủ các phương tiện truyền thông, tiểu thuyết, điện ảnh và biểu tình rầm rộ… Những tư tưởng mới này sau đó cũng tới Việt Nam với phong trào đòi cải cách giáo dục và chuyển ngữ đại học (cải cách chương trình “từ chương” nặng nề kiểu Pháp và chuyển các bài giảng đại học bằng tiếng Pháp qua dạy bằng tiếng Việt). Trong bối cảnh xã hội phức tạp của giai đoạn đó có một số phong trào đòi cải cách mang màu sắc chính trị. Một số cuộc biểu tình tại các trường học nổ ra theo cách có tổ chức nhưng cũng có một số mang tính “nổi loạn” tự phát. Lý do các cuộc biểu tình thì nhiều, tùy tình hình xã hội cụ thể từng lúc nhưng giới trẻ cũng đã âm ỉ tinh thần chống chiến tranh (trong lúc cường độ cuộc chiến trong nước ngày càng cao, nghĩa trang quân đội ngày càng có nhiều mộ, trong đó có mộ chú Đạt!). Tại trường Pétrus Ký một nhóm nhỏ học sinh “dám” vây đánh thầy tổng giám thị, hô hào lật đổ hiệu trưởng… (trong khi những học sinh khác ngơ ngác đứng nhìn)! Nhiều ban đại diện học sinh các trường ăn nói rất lớn tiếng trước mặt các thầy cô ngồi nín thinh (hình ảnh rất ngược với trước kia!). Nhiều tập san học sinh sinh viên có những bài viết rất nảy lửa…!

Trong tình hình đó, bố cũng như rất nhiều học sinh cùng thời đã rất nức lòng trước sự đổi thay; cảm thấy mình “hiểu biết” hơn, quan trọng hơn, mình “lớn” hơn! Hơn nữa, bố lại được dịp tiếp xúc và nói chuyện nhiều với ông chú Thi (em họ ông nội), dân trường Tây học Lycée Yersin Đà Lạt, lớn hơn bố bảy tuổi, vào Sài Gòn ở trọ tại nhà mình để chuẩn bị thi Tú Tài. Ông chú học trường Tây ấy có rất nhiều tư tưởng cấp tiến và cả “nổi loạn”, đã tác động rất nhiều đến bố khiến bố càng thấy mình “ngon” hơn, càng mạnh dạn phản kháng nhiều vấn đề với ông nội hơn. Hai cha con càng xa cách hơn!

 

Sự gay cấn giữa hai thế hệ già-trẻ trong toàn xã hội cũng như trong từng gia đình đã lên tới cực điểm khi ông Phạm Công Thiện xuất bản quyển “Ý Thức Mới Trong Văn Nghệ Và Triết Học” mà ông đã bắt đầu viết từ năm mười sáu tuổi. Nội dung quyển sách đã “thức tỉnh” giới trẻ với nhiều tư tưởng mới của những văn sĩ, triết gia Tây phương nhưng đồng thời tư tưởng gia trẻ tuổi đó lại có những phê phán, lên án người lớn” trong nước bằng những tính từ nặng nề: “già nua, lạc hậu, trì trệ, bảo thủ, tự kiêu …” và đổ lỗi cho thế hệ đi trước đã để lại “một gia tài tan nát” cho thế hệ đàn em! Tuổi trẻ thời ấy, trong tình hình chiến tranh đang tàn phá đất nước, đã xem quyển này như thánh kinh để đầu giường. Cũng may là thượng tọa Thích Nhất Hạnh đã làm dịu bớt tinh thần những người trẻ tuổi quá khích bằng bài viết trả lời trong quyển “Nói Với Tuổi Hai Mươi”. Bố đã đọc cẩn thận quyển này và cảm thấy tâm hồn mình “dịu mát” hơn!

Nhưng dầu sao, giai đoạn lịch sữ đó đã tạo thêm một khoảng cách xa hơn trong sự cảm thông giữa ông nội và bố. Hai cha con ít nói chuyện với nhau hơn và ông nội lại càng lầm lì cắm cúi vào công việc hơn.

 

Hết chiến tranh, khỏang năm 1976, ông nội cùng chú họ của ông nội tên Y (bố của ông chú Thi) đi xe lửa về thăm quê hương đất Bắc sau hơn ba mươi năm bỏ xứ. Thấy được cảnh nghèo xơ xác của bà con dòng họ ngoài ấy, lúc trở về, ông nội nghẹn ngào nói với bố: Mai mốt con có làm ăn khá giả thì ráng giúp những thằng cháu nghèo của bố gồm hai thằng Kính – Chúc con chú Tôn mồ côi cha rất sớm và thằng Thẩm con cô Mai mù lòa từ khi thằng Thẩm còn rất nhỏ”. Bố biết ông nội rất ray rứt chuyện này bởi vì hơn hai mươi năm qua ông nội thường kể đi kể lại với bố ngày ông bỏ làng vào Nam từ năm bốn mươi để trốn đói, để kiếm việc làm, đứa em trai út là chú Tôn chạy theo vừa khóc vừa nói: “Mày không được đi, không được đi! Mày mà đi thì tao không cho mày về!”. (Nhiều người thời ấy nghĩ rằng có đói thì đành chịu đói cả nhà chứ không ai được bỏ làng mà đi)!

 

Và bố đã làm điều cần phải làm. Bố đã mua đất, mua ruộng cho chú Chúc chú Thẩm tại xã Định Thành, huyện Thoại Sơn để gia đình hai chú từ miền Bắc vào định cư - cũng như trước đó bố đã mua nhà tại Long Xuyên cho ông chú Thi từ Đà Nẳng vào với ba đứa con vì thất nghiệp sau 75. Bố biết việc giúp đở họ hàng như thế đã làm ông nội hài lòng.

Ông nội mất vì ung thư gan (hưởng thọ 79 năm) sau một cơn đau oằn oại ngắn tại nhà, không có gì trăn trối với vợ con! 


 

Câu đối bố làm trong tang lễ ông nội sau đó được khắc trên bia mộ:

Công dưỡng dục chưa kịp đền ân đức

Cách âm dương đã sớm vội chia lìa…

 

Trích trong “Phả Ký họ Khương”, tháng 2/ 2002

Nhận xét