(Má tôi mất năm 2009, hưởng thọ 94 tuổi. Những năm cuối bà bị bệnh Alzheimer, tôi thường ngồi bên cạnh nói chuyện nhưng bà không biết gì và không biểu lộ cảm xúc gì! Phải chi trước đó, khi má tôi còn khỏe và minh mẫn mà tôi đến với bà nhiều hơn, chắc bà sẽ cảm thấy sung sướng hơn! Tiếc rằng đâu được như vậy! Tôi cứ phải làm việc ở cơ quan và làm kiếm tiền ở phòng mạch ngoài giờ nên không dành được thời giờ cho mẹ già. Trong đám tang của má tôi, khi những nhà sư đọc kinh trước giờ hạ huyệt, tôi khóc thật nhiều. Tôi khóc vì nhớ thương mẹ nhưng cũng vì ân hận! Khoảng hai mươi năm cuối đời, bà rất cô đơn. Đứa con trai của bà là tôi nghĩ rằng mình chỉ lo gửi tiền nuôi dưỡng bà thật đầy đủ là tạm được rồi. Đâu phải vậy!
Trong bài viết “Nhớ Về Thời Thơ Ấu Của Tôi” có nhiều đoạn viết về bà. Nay tôi trích thêm trong quyển “Phả Ký Họ Khương” một số chuyện khác … để nhớ về mẹ tôi…!)
... Có một chuyện mà tôi nhớ hoài. Năm tôi 22 tuổi, em Đạt của tôi 17 tuổi phải đi quân dịch do lệnh tổng động viên vì cuộc chiến quyết liệt trong “mùa hè đỏ lửa 1972”, một mùa hè mà biết bao thanh niên VN hai miền đã ngã xuống! Sau ba tháng quân trường hạ sĩ quan, Đạt được điều động về Vĩnh Long. Chỉ vài tuần sau có một người lính đến nhà báo tin em đã chết vào một sáng sớm bên ngòai đồn binh gần cầu Bình Minh vì lựu đạn gài ban đêm; xác còn quàn tại tiểu khu Vĩnh Long. Cả nhà mượn xe đi lãnh xác. Đến nơi người ta chỉ vào một cái xác đã bọc gói trong bao nylon. Nhìn qua lớp nylon tôi nhận ngay ra gương mặt của Đạt. Trong khi đó má tôi vừa khóc vừa quờ quạng rờ lên xác em vừa nói: “Mắt má mờ quá không thấy gì hết. Tấn con! Con nhìn xem có phải em con không?” Tôi nghẹn ngào chưa kịp trả lời thì má tôi đã rờ xuống hai bàn chân trần thò ra khỏi bao nylon và gào lên “Bàn chân của thằng Đạt đây mà! Trời ôi con tôi!” và ngã xỉu! Tôi nhìn hai bàn chân của Đạt không thấy gì lạ. Hai anh em chơi chung với nhau mười mấy năm mà tôi không biết chân của Đạt có gì đặc biệt. Má tôi chỉ cần rờ đến bàn chân của em là đã nhận ra ngay xác con mình!
Nhiều ngày sau khi đã chôn Đạt, mỗi đêm hàng xóm đều nghe tiếng má tôi khóc rền rĩ. Cô Minh ở nhà bên cạnh nói với tôi: “Bác gái khóc giống như cảnh bà mẹ khóc con đã tả trong quyển ‘Đêm Nghe Tiếng Đại Bác’ của nhà văn Nhã Ca. Em xúc động nghe bác khóc mà phải khóc theo!”.
Tôi đã rất đau đớn khi xem những vết thương của Đạt; lựu đạn nổ gây nhiều vết thương cạn, chỉ một hai vết thương sâu không phải chỗ hiểm. Tôi đóan Đạt chết chỉ vì mất máu. Đồn đóng nơi xa, chắc thiếu quân y và không có phương tiện cấp cứu . Em đã phải chết từ từ; không biết những giờ phút trước khi chết em đã suy nghĩ gì ?! Đạt còn quá trẻ, chưa có người yêu, chắc chắn em chỉ nghĩ tới cha mẹ và các anh chị. Vào giờ phút đớn đau đó, không có ai ở bên cạnh Đạt!
Từ ngày đó tôi thù ghét chiến tranh nên thường tham gia các phong trào sinh viên phản chiến - phản chiến là chống đối chiến tranh chứ không phải vì ủng hộ phe này hay chống đối phe kia. Đến khi ông D.V. Minh tuyên bố đầu hàng, tuy tôi có lo lắng vì thời cuộc biến đổi chưa biết tương lai ra sao nhưng lại rất mừng vì đất nước không còn chiến tranh. Ngay trước và nhiều năm sau ngày 30/4, bạn bè và người quen vẫn thường rủ rê tôi di tản và vượt biên nhưng lần nào tôi cũng từ chối. Tôi từ chối vì thương cha mẹ và thương hai em gái, nhưng cũng vì nghĩ rằng khi đất nước đã hết chiến tranh thì sẽ được hưởng hòa bình hạnh phúc vì đâu còn thù hằn đâu còn phân chia, phân biệt…(vậy mà thật tế tình trạng phân chia phân biệt vẫn còn kéo dài)!
Khi lên đại học, tôi vừa học Y Khoa vừa ghi tên học Cử Nhân Anh Văn tại Văn Khoa nên có dịp làm quen với những sinh viên thuộc phe chống đối ở cả hai trường này…Trong một buổi tối meeting hát nhạc phản chiến tại Đại học Nông Lâm Súc, khi sự cuồng nhiệt của sinh viên đã lên tới đỉnh điểm, sắp trở thành biểu tình thì cảnh sát can thiệp sớm “mời đi” nhiều lãnh tụ sinh viên. Tôi chỉ là sinh viên tham gia nhưng vì chậm chân nên bị bắt chung. Tối hôm ấy là thứ sáu và suốt ngày hôm sau có nhiều dân biểu đối lập vào bót cảnh sát thăm nuôi và lên tiếng sẽ can thiệp. Theo luật, cảnh sát chỉ được quyền lưu giữ nghi phạm không quá 48 tiếng, đủ thời giờ làm hồ sơ chuyển qua tòa án. Qua trao đổi với các dân biểu đến thăm ngay tại bót, chúng tôi biết là sáng thứ hai sẽ được đưa qua biện lý tòa án và cũng được biết là sẽ được trả tự do ngay, không đưa ra tòa xét xử vì không đủ chứng cứ phạm tội (trong buổi tối meeting đó sinh viên chỉ nồng nhiệt hát hưởng ứng các bài nhạc phản chiến trong đó có bài “Tự Nguyện” của Trương Quốc Khánh, và chính anh ta cũng bị bắt giam chung cùng cả nhóm trong bót). Do vậy tôi đã trải qua những giờ phút khá thoải mái trong bót cảnh sát. Thức ăn được cung cấp đầy đủ ngon lành tận nơi bởi những dân biểu đối lập và ban đại diện sinh viên (dầu tới giờ ăn cũng có “cơm tù”). Tôi đã tận hưởng cái hãnh diện phù phiếm của tuổi trẻ, cảm thấy rất “oai” khi bị giam trong nhà tạm giam của Cục Cảnh sát Quận Nhất, mà không biết rằng má tôi đang đau đớn mất ăn mất ngủ và lo sợ. Bà còn chưa quên cái kinh nghiệm hãi hùng khi nuôi chồng bị mật thám Pháp bắt giam và tra tấn trước kia chỉ vì bị bọn “bao bố” chỉ điểm một cách vô tội vạ. Sau khi ba tôi được thả ra má tôi phải chăm sóc ông nằm liệt giường gần sáu tháng! Tội nghiệp, nếu má tôi biết rằng luật pháp thời ấy không phải luật pháp thời thực dân thì bà không đến nỗi phải lo lắng như vậy! Sáng thứ hai, khi chiếc xe Jeep cảnh sát chở nhóm sinh viên từ phòng giam ra tới cổng bót để ra tòa thì tôi trông thấy má tôi đang đứng chờ sẵn đấy hớt hãi chạy theo xe với tay đưa hai ổ bánh mì. Tôi cười lắc đầu đưa tay lên chào tỏ vẻ không cần để má tôi an tâm nhưng tôi vẫn kịp trông thấy ánh mắt thương yêu đau xót lẫn sợ hãi của má tôi cứ nhìn theo chiếc xe xa dần.
Sau 1975, dưới chế độ mới mọi sinh họat làm ăn cá thể đều đình trệ. Ba tôi thất nghiệp chờ nhà nước tổ chức hợp tác xã (đến khi có hợp tác xã thì vì tổ chức rất luộm thuộm và vì hàng làm ra không bán được nên chắng bao lâu sau phải đóng cửa). Tôi 25 tuổi, đã tốt nghiệp nhưng chưa có việc làm còn chờ nhà nước phân công (hai năm sau mới được phân công về tỉnh An Giang). Má tôi 60 tuổi mỗi sáng nấu thúng xôi ra bán ở đầu ngõ cũng như một số “phu nhân” của chế độ trước nay cũng phải ra mua gánh bán bưng. Ngày đầu tiên bán xôi, thúng xôi nặng khiến bà khuân không nỗi phải gọi tôi khuân tiếp. Tôi mắc cỡ vì cảnh nhà nghèo hèn hơn trước, nên khiêng thúng xôi rất ngượng nghịu. Biết ý, má tôi nói: “Ngày mai má sẽ nấu ít nếp hơn, bớt một ít tiền lời cũng được, con khỏi phải dậy sớm khuân tiếp má. Má khuân một mình cũng tiện”. Những buổi sáng sớm sau đó, tôi có thức dậy rồi cũng làm bộ như còn đang ngủ. Má tôi không gọi tôi dậy; lủi thủi một mình khuân thúng xôi ra đầu ngõ… Ngày nay, ngồi viết lại chuyện này, tôi không nghĩ rằng thật sự má tôi có bớt một số lượng xôi cho đủ nhẹ như đã nói cho tôi an tâm?! Ở tuổi sáu mươi, má tôi vẫn gồng đôi tay, oằn đôi vai đi kiếm từng đồng nuôi chồng nuôi con ! Cậu con trai sung sức khỏe mạnh, có bằng cấp đại học sau bảy năm học (Y Khoa đấy chứ!!) tuy có xấu hổ vì bà mẹ bán xôi nhưng không làm gì ra tiền nên vẫn phải ăn những hạt cơm do bà mẹ già kiếm được nhờ đi bán những gánh xôi từ khi trời chưa kịp sáng!
Đâu chỉ có vậy. Bên cạnh việc quần quật kiếm miếng ăn cho gia đình; má tôi còn tinh ý thấy được những nỗi bức rức của tôi khi tốt nghiệp đã lâu mà vẫn phải ăn bám gia đình nên thường lên tiếng an ủi. Đến khi tôi được phân công đi tỉnh xa làm việc với đồng lương thấp kém, điều kiện sống và làm việc khó khăn nhưng mỗi khi có dịp về Sài Gòn thăm nhà đều đem theo chút đỉnh tiền dành dụm gửi mẹ già thì má tôi đâu có nhận! Càng thấm thía hơn khi bà thấy tôi trầm tư mỗi khi nghe tin những người bạn đồng học và đồng nghiệp lần lượt vượt biên… Có vài lần bà đã ngỏ ý: “Nếu con thấy cần vượt biên thì má cho con hết hai lượng vàng đã dành dụm từ trước tới nay để con làm chi phí. Ba má và hai em của con ăn uống tiêu xài không bao nhiêu, mấy thúng xôi của má cũng trang trải được rồi!”. Má tôi đã từng hy sinh quá nhiều nhưng vẫn sẵn sàng hy sinh một lần nữa cả số vốn liếng cuối cùng dành dụm gần ba mươi năm gian khổ để con mình có điều kiện thay đổi cuộc sống nếu muốn. Bà đã ngỏ ý ấy hoàn toàn chỉ vì tôi, chỉ vì cảm thông với nỗi khắc khoải của tôi chứ bà mẹ nào lại muốn xa con, muốn con ra đi trong muôn trùng hiểm nguy… và chưa biết có ngày nào gặp lại. Tôi cầm hai cái vòng đeo tay giá trị hai lượng vàng mà rơi nước mắt rồi đưa trả lại bà.
Một chuyện nữa phải kể về má tôi. Năm tôi 47 tuổi, người mập mạp lên cân nhiều. Buổi tối tôi thích nằm ngủ tại cái giường kê sát cửa sổ ngó ra sau nhà, nơi đây trống trải mát mẻ nhưng lại xa các toilet. Tôi hay đi đái đêm nhưng lại nghĩ do mình uống bia nhiều. Mỗi tối phải lê đến toilet nhiều lần riết rồi cũng bực mình, tôi đặt một cái bô đựng nước tiểu ngay tại đầu giường, buổi sáng mang xuống đổ dưới nhà. Vài hôm sau trong khi tôi nằm chơi trên divan gần phòng khách thì má tôi đến ngồi xuống bên òa khóc và nói: “Tại sao con bệnh mà không nói với má, bệnh nặng lắm nên con dấu má phải không con?”. Tôi ngạc nhiên hỏi: “Má nói con bệnh gì?”. Bà nói: “Con dấu má làm gì ?! Má biết con bị bệnh tiểu đường vì mỗi sáng má rửa bô cho con thấy kiến bu quanh cái bô” (thời ấy người dân đánh giá tiểu đường là bệnh nay y). Tôi sững sờ vì phát hiện của má tôi. Bà không có cái đầu của bác sĩ mà có quả tim của người mẹ thương yêu con lúc nào cũng quan tâm đến con nên dễ dàng phát hiện ra bệnh tiểu đường của tôi trong khi tôi là bác sĩ mà không sớm phát hiện ra bệnh của mình! Một giáo sư là thầy của chúng tôi tại ĐH Y khoa SG có nói: “Người mẹ nào cũng là một nhà triệu chứng học tiểu nhi xuất sắc vì họ luôn là người sớm nhất phát hiện các triệu chứng bất thường của con mình”. Má tôi là một bà mẹ như vậy!
Qua vài câu chuyện trên ai cũng thấy tôi đã nhiều lần làm cho má tôi buồn khổ… Tuy cũng có khi tôi cảm thấy ân hận vì những hành động vô tình làm bà buồn lòng hay đau khổ nhưng có lần nào tôi đủ can đảm thổ lộ xin lỗi bà đâu ?! Nói chung đứa con nào cũng có lòng thương yêu cha mẹ. nhưng tuổi trẻ thường lại rất nông nổi; coi cái tôi quan trọng hơn mọi thứ…Những cái như sĩ diện, tự ái, sở thích cá nhân, tình ái, công danh, sự nghiệp… thường khi vượt qua tình thương yêu cha mẹ. Những đứa con như thế sẽ không thể hiểu được “Trái Tim Người Mẹ” như trong một tập truyện ngắn, Thích Nữ Trí Hải có viết.
Những giây phút cuối cùng của cuộc đời má tôi cũng đơm giản, không phiền hà tốn kém gì cho vợ chồng tôi. Bà ra đi êm ả nhanh chóng trong cơn trụy tim, may là tôi có ở bên cạnh. Tôi nghĩ rằng cái chết diễn tiến nhanh của má mình cũng là biểu hiện cuối cùng của quả tim người mẹ lúc nào cũng thương con, lo lắng cho con, không muốn con tốn kém và cực khổ nuôi mẹ bệnh lâu dài!
.
Khi viết phả ký, người ta hay viết di ngôn để lại cho con cháu, nhắc nhở những lời hay lẽ phải, những điều nên tránh, những việc phải làm… Tôi chưa biết phải viết di ngôn như thế nào cho hay cho phải để lại cho hai con của tôi. Thôi thì mong rằng hai đứa cứ đọc những mẫu chuyện, những tâm tình của tôi viết về ba - má tôi, hai con của tôi sẽ hiểu ra di ngôn của tôi muốn nói gì ….!
(Trích từ “Phả Ký họ Khương” viết năm 2002)
TB: Tôi có hai đưa con trai, Văn sinh năm 1981 và Nhân sinh năm 1984. Nhân bị bệnh Suy Thận và mất năm 2020, sau má tôi một năm!
Nhận xét
Đăng nhận xét