XÓM NHỎ THỜI THƠ ẤU CỦA TÔI


 

(Tôi viết bài này để hoài niệm về tuổi thơ của mình ở Sài Gòn, nơi tôi được sinh ra và sống 26 năm đầu đời trước khi về “định cư” lâu dài tại Long Xuyên. Tôi đã cố nhớ để viết được khá tỉ mỉ và nhiều phần chính xác trong lúc đầu óc còn minh mẩn, vì biết mình sẽ đọc đi đọc lại lúc về già. Như thế cũng tiện! Ngoài việc giúp tôi nhớ lại những kỷ niệm xưa, bài viết cũng giúp cho những ai sau này muốn đọc để biết một góc nhỏ lịch sử về đời sống Sài Gòn vào thời kỳ đó, tuy tới nay không xa xôi lắm, nhưng thật sự rất khác, thay đổi rất nhiều so với hiện nay, những năm đầu thế kỷ 21 này!)

 

           Tôi sinh trưởng trong một con hẻm của một xóm nhỏ Sài Gòn cạnh đường Nguyễn Tấn Nghiệm, sau đổi tên là Phát Diệm, nay là Trần Đình Xu. Xóm này vào ngày xưa đó được bọn trẻ gọi là Xóm Sau Mả vì nằm ngay bên cạnh một khu nghĩa địa (của dòng họ Huỳnh, nhà giàu dân Tây).

Trong khu nghĩa địa này, nổi bật một ngôi nhà mồ to với mái ngói lớn phủ cả sáu ngôi mộ. Ngoài ngôi nhà mồ có tường bao và mái che còn vài nấm mộ nhỏ lộ thiên nằm quanh, chắc của con cháu về sau. Bên ngoài khu nghĩa địa họ Huỳnh là một khoảng đất trống, lại cũng có một số mộ hoang, có khi chỉ là một nấm đất lạc loài, nằm rải rác từ khi nào không biết trong những đám cỏ lác, lau sậy um tùm, xâm xấp nước những lúc triều cường… mà trong khoảng đất đó có lần dân trong xóm vây bắt được một con trăn gió thật to.

Ngôi nhà mồ trông rất bề thế, lợp ngói âm dương, lát gạch Tàu, có tường đá hoa cương dày chắc, cao gần một thước vây quanh. Trong nhà mồ có sáu ngôi mộ thật to với bia mộ cũng bằng đá hoa cương nhưng cao hơn tường bao. Trên bề mặt mỗi nấm mộ đều có đặt một phiến đá cẩm thạch trắng,  phẳng phiu bóng loáng, có tấm lớn bằng cả cái bàn ăn. Tuy nhiên kích thước các ngôi mộ này không đều nhau. Chỉ riêng hai cái mộ to nhất có treo bên trên hai bức họa truyền thần to bằng người thật, vẽ một ông và một lớn tuổi, trang phục kiểu người quyền quí hay quan lại thời trước. Tôi còn nhớ điểm đặc biệt của hai bức họa hai cặp mắt và mũi hai đôi giày. Ngoài chuyện cả hai đôi mắt đều rất “có thần” lúc nào cũng nhìn thẳng vào mắt người xem thì mũi hai đôi giày (và cả thân con người trong hình) lúc nào cũng quay theo, hướng về người xem dầu người xem xê dịch qua lại thế nào! Hai bức họa đặc sắc như thế nên lần nào đứng xem tôi cũng cảm thấy rùng mình nhưng vẫn cứ tò mò muốn xem!


Thoạt đầu xóm nhỏ của tôi chỉ sáu - bảy mái nhà nằm dọc theo một con hẻm đổ ra đường Nguyễn Tấn Nghiệm. Nhà tôi ở sâu trong con hẻm đó, trước nhà là một ao rau muống có nhiều cá lóc cá rô đến độ chỉ cần đứng yên một lúc trên bờ ao là có thể thấy chúng bơi lội dưới đám rau (chúng không sợ con người lắm!). Ngoài đường gần đầu hẻm có một tiệm may Âu phục, ông chủ tiệm một hôm bỏ đi đâu mất, vợ con còn ở lại vài năm sau rồi cũng đi mất. Sau năm 75 ông ta trở về, lúc này là một cán bộ giải phóng cấp cao. Bên kia đường, từ tiệm may nhìn xéo qua vài căn nhà là tư gia của Bảy Viễn, tướng Bình Xuyên.

 

Khi quân đội của ông Diệm đánh nhau với Bình Xuyên, cuộc chiến vài lần xảy ra trước nhà ông Bảy Viễn. Mỗi khi súng nổ, dân trong xóm chúng tôi rời những căn nhà thô sơ ộp ẹp của họ, kéo vào trong nhà mồ, chen nhau núp giữa các ngôi mộ lớn bằng đá hoa cương dày chắc. Có hôm, một viên đạn mortier rơi trên mái ngói nhà mồ, lăn lông lốc rồi rớt xuống đất mà không nổ. Dân trong xóm mừng, cho là nhà mồ linh thiêng nên mỗi khi súng nổ lại kéo vào đấy tránh đạn, súng hết nổ lại trở vào nhà. Riêng bố tôi không tin chuyện linh thiêng đó nên dứt khoát thu xếp cho cả nhà đi Đà Lạt tạm thời lánh nạn tại nhà ông chú (em ông nội), làm việc tại Sở Hỏa Xa Đà Lạt, cho đến khi chấm dứt cuộc chiến Bình Xuyên. Năm đó tôi mới được sáu tuổi.


 

Bên cạnh xóm của tôi là một xóm nghèo khác mang tên Xóm Đất Thánh nằm lọt trong tam giác tạo bởi ba con đường nay là Nguyễn Cư Trinh, Nguyễn Trãi, Cống Quỳnh. Gọi tên như vậy vì xóm này nằm ngay trên một nghĩa địa lớn bỏ hoang của người công giáo. Trên các ngôi mộ đều có cây thập giá . Ở đây có một nhà thờ nhỏ mà từ thập niên 50, ngay khi mới bảy tám tuổi tôi đã thấy nó cũ kỹ, đìu hiu. Cho đến khoảng năm 90, khi trở lại chốn xưa, tôi thấy nó chỉ còn như là một phế tích. Tôi gọi Xóm Đất Thánh nằm “ngay trên” nghĩa địa thì không ngoa chút nào vì con người ở đây lúc đó chẳng những sống trong nghĩa địa mà còn ngay trên các ngôi mộ!

Nghĩa địa Xóm Đất Thánh là một khu có nhiều mộ hoang của giáo dân không còn thân nhân chăm sóc. Ngay cả trong ngày lễ Các Thánh cũng ít thấy người tới thắp đèn cầy trắng. Khi chiến tranh lần lần leo thang; dân quê bỏ làng mạc kéo lên thành phố đã tìm đến đây chiếm ngụ ngày càng đông. Lúc đầu họ còn e dè, cất nhà chen giữa các ngôi mộ. Lần lần, khi số người ngụ cư đã quá đông; không còn đất trống, những người đến sau cất nhà bao trùm luôn mộ và dùng ngay những nấm mộ có bề mặt phẳng làm bàn ăn, bàn học hay cả giường ngủ. Về sau, để cho rộng chỗ, các nấm mộ lần lượt được cư dân tại chỗ lén lút phá bỏ. Có thể vì vậy mà có người gọi khu nghĩa địa này là Khu Mả Lạng. Tôi nghĩ gọi như vậy dễ gây hiểu lầm với khu “mả lạng” của quân sĩ ông Lê Văn Khôi bị xử tử… (ở nơi khác trong Sài Gòn)! 

Đối diện Xóm Đất Thánh qua bên kia đường Nguyễn Trãi là thành Ô-Ma hoang vắng từ khi lính viễn chinh Pháp kéo về nước, không còn tiếng kèn đồng thổi mỗi sáng mỗi chiều. Thời xưa nơi đây có đền Hiển Trung (đã bị phế bỏ từ lâu) đối diện với Miếu Ngũ Hành ở góc đường Nguyễn Trải - Nguyễn Cư Trinh (gần đây vẫn còn). Gần Xóm Đất Thánh nhưng nằm về phía đường Cống Quỳnh là Xóm Lục Lăng mà tôi ít dám “bén mảng” tới vì là giang sơn của nhiều “anh hùng hảo hớn” rất “dữ dằn”! Qua bên kia đường Cống Quỳnh, phía sau chợ Thái Bình và sau nhà bác sỹ Trương Ngọc Hơn phụ trách chương trình phát thanh giáo dục y tế, là Xóm Sáu Lèo kéo dài đến đường Bùi Viện mà một trong những trận hỏa hoạn lớn năm 1956-57 tại Sài Gòn đã từng thiêu rụi cả xóm. Đi qua Xóm Sáu Lèo sẽ tới Ngả Tư Quốc Tế sinh hoạt thâu đêm suốt sáng, là nơi mà hàng đêm giới nghệ sĩ cải lương nổi tiếng một thời sau khi diễn tuồng tại rạp Nguyễn Văn Hảo vẫn ra đây uống rượu, đánh bi-da…đến gần sáng. Cái Ngả Tư Quốc Tế ngày xưa đã vậy mà ngày nay lại càng “quốc tế” hơn khi Tây ba-lô bắt đầu lui tới đường Phạm Hồng Thái cạnh đó và đường Bùi Viện.


Đối mặt với Xóm Sau Mả qua bên kia đường Nguyễn Tấn Nghiệm là Xóm Sở Rác. Gọi tên như vậy vì Sở Vệ Sinh thành phố dùng khoảnh đất trống cạnh đấy làm nơi tập trung rác trước khi đưa ra ngoại ô xử lý. Nhiều người dân trong xóm đó đã sống bằng nghề khai thác đống rác này nên không khí nơi đây khá nặng mùi! Phía sau Xóm Sở Rác là Xóm Bôm-Dê ( Pompier ) với khu cư xá của nhân viên Sở Cứu Hỏa, là ranh giới ngăn cách giữa khu dân cư tạp nhạp của chúng tôi với khu an ninh trật tự hơn của công chức. Qua khỏi Xóm Bôm-Dê là khu vực làm việc và doanh trại của cảnh sát, công an mà trước năm 1955 nằm trong tay của lực lượng Bình Xuyên. Đi qua khu vực này sẽ tới ga xe điện (tàu điện) Nancy (nay là ngả tư Trần Hưng Đạo - Nguyễn Văn Cừ ) đã hết hoạt động từ đầu những năm 50.

 

Như vậy, xóm của tôi ngày ấy nằm ngay “trung tâm” của Sài Gòn - Chợ Lớn. Gọi là “trung tâm” thì vừa đúng về vị trí địa dư vừa đúng về “danh tiếng” (hay “tai tiếng”)! Đi về phía chợ Bến Thành Sài Gòn, từ xóm tôi qua khỏi Ngả Tư Quốc Tế là Khu Dân Sinh tại chợ Cầu Ông Lãnh vốn là lãnh địa của những đại ca giang hồ hoạt động ngay gần bót cảnh sát Quận II và không xa Xóm Bình Khang tập trung gái mãi dâm từ thời Nhật chiếm đóng. Theo chiều ngược lại, đi về phía Chợ Lớn, từ xóm tôi qua khỏi ga tàu điện Nancy sẽ tới Khu Đại Thế Giới của người Hoa, là nơi ăn chơi và sòng bạc lớn kiểu Casino được phe Bình Xuyên bảo trợ.


       Trước khi Tổng Thống Diệm hình thành các đơn vị hành chính Khóm-Phường có quy củ luật lệ với những cái tên hoa mỹ hơn, thì Xóm là các đơn vị dân cư do người dân tự kéo đến tập trung, được người dân tự đặt tên để gọi một cách rất bình dân, rất dễ nhớ. Thường khi tại các xóm này, người ta đối xử với nhau theo luật giang hồ hơn là luật lệ nhà nước! Cách gọi địa chỉ cũng khác quy định của chính quyền. Khi gặp nhau và hỏi nhau: “ ở đâu ? ”; người ta không quen trả lời nhà tôi ở số mấy đường này hay đường kia. Câu trả lời sẽ là: “ tôi ở Xóm Củi, ở Xóm Chiếu, ở Xóm Chợ Cầu Muối, ở Xóm Cầu Kho, Xóm Chợ Cầu Ông Lãnh, Xóm Chợ Cũ, Xóm Lò Heo, Xóm Lò Da, Xóm Bàn Cờ, Xóm Chợ Đũi, Xóm Tân Định, Xóm Đa Kao, …”. Cũng vì vậy, khi có ai hỏi tôi ở đâu tôi sẽ trả lời là: “ tôi ở Xóm Sau Mả”.

 

Vì ở cạnh nghĩa địa, đâu có chỗ nào khác để chơi đùa, ngôi nhà mồ lớn trong xóm là sân chơi của bọn trẻ chúng tôi thời thơ ấu. Chúng tôi bày mọi thứ trò chơi tại đây như thi bắn bằng ná (giàn thun) những con chim sẻ đậu trên nóc nhà mồ; như tập đánh bóng bàn trên những ngôi mộ lát tấm đá cẩm thạch lớn; như diễn kịch, hát cải lương lấy nhà mồ làm nhà hát… Có khi nghĩa địa còn là bãi chiến trường cho bọn con trai chơi trò đánh nhau trong xóm hay “nổi máu anh hùng” gây sự đánh lộn với bọn con trai xóm khác. Vài khi cuộc chiến trẻ con này vẫn gây lỗ đầu sứt trán là chuyện thường. Bọn trẻ con trai thích đánh nhau và rất thích cái “nghĩa khí giang hồ” được biết qua chuyện các anh hùng Lương Sơn Bạc hay qua bài vọng cổ “Đơn Hùng Tín - La Thành” được nghệ sĩ Minh Chí diễn tả …Vì thế chúng tôi thích tỏ ra mình là “anh hùng hảo hán” và thường kể cho nhau nghe một cách khâm phục những giai thoại, những thành tích hiển hách của các bậc đàn anh thuộc “giới anh chị” đương thời (như những Lu-y, Tài Bé, Đại Cathay…). Bọn trẻ con gái thường chơi những trò nấu cơm, đánh đũa, nhảy dây… không sôi động như đám con trai. Thỉnh thoảng trai - gái có chơi chung và hay bày trò chơi “hoàng tử - công chúa”; “thương binh - nữ y tá”…hay trò chơi “vợ - chồng”…Và đã có những thằng ma-lanh mười một mười hai tuổi tìm cách “làm chồng” thật sự những đứa con gái chín mười tuổi ngay trong nhà vào ban ngày vì người lớn đã đi làm cả rồi!

 


Ban đầu cái xóm nhỏ thưa thớt dân cư. Sau năm 54 một số người Bắc di cư vào Nam có người quen nên không đi các khu dinh điền (do ông Diệm xây dựng) mà ở lại thành phố, vào xóm nhỏ cất nhà sinh sống. Rồi lần lượt thêm những người dân quê các tỉnh miền Tây, miền Đông và cả tận miền Trung, tránh chiến tranh nên cũng tìm đến… Cái xóm nhỏ trở thành đông dân. Mọi người chen chúc nhau,  đủ thành phần, giọng nói, lối sống, phong tục và tôn giáo … Tuy vậy họ khá hòa thuận với nhau; người cũ bao giờ cũng sẵn lòng giúp đở người mới. Bọn trẻ chúng tôi cũng dễ dàng làm quen với nhau và nhân đó tôi cũng được học thêm nhiều chuyện “nhà quê” và các trò chơi dân dã của nhiều địa phương khác nhau.

Sau năm 62, khu Xóm Sau Mả bị giải tỏa, đường Nguyễn Cư Trinh được kéo dài để nối từ đường Trần Hưng Đạo đến đường Võ Tánh (nay là Nguyễn Trãi) trở thành bến xe Miền Đông. Một số gia đình có nhà bị giải tỏa được bố trí nơi ở mới tại những chung cư mới xây dựng vùng ven thành phố. Vài năm sau tôi vẫn còn thấy những tấm đá hoa cương của ngôi nhà mồ cũ bị vứt bỏ lây lất trên một con đường ngoại ô khi di dời mộ! Những nhà còn  lại trở thành nhà mặt tiền. Bọn trẻ chúng tôi cũng bắt đầu tuổi trung học, có nhiều bạn mới nhưng lại có nhiều dịp tiếp xúc hơn với đủ loại thành phần xã hội phức tạp, những lơ xe hay gây gổ và những tay anh chị đâm thuê chém mướn… ở bến xe. Đến khi lính Mỹ vào Việt Nam, rất nhiều snack bar được mở hai bên đường; chúng tôi lại được quen biết thêm những đám lính Mỹ say rượu, những ma cô, tú bà, gái bán bar, gái điếm…

 



Trong môi trường sống như thế, những đứa trẻ xóm nghèo chúng tôi có rất nhiều nguy cơ sa đọa; vì thế nhiều đứa đã ngã xuống. Từ đứa thuộc gia đình hơi khá giả nên mê chơi chẳng chịu học hành như  Ngọc con bà chủ phố sau này thất nghiệp sống lây lất, cho đến hai đứa nhà trung lưu như Dũng, Minh con ông chủ xe kiêm tài xế xe tải chết sớm vì ma túy, cho đến con nhà nghèo như Mỹ có cha làm nghề đạp xe xích-lô, thất học nên đến tuổi phải đi lính và chết đâu đó trên chiến trường! Riêng tôi, tôi thuộc vào một số ít may mắn không ngã xuống, mà lại ngoi lên được nhờ nhiều yếu tố. Nhờ bố tôi mở cơ sở thủ công gia đình làm va-li, cặp-táp nên từ khi còn chưa được mười tuổi, mỗi ngày tôi phải mất vài giờ tham gia lao động giúp bố. Nhờ má tôi là một tấm gương nhẫn nại, chịu đựng và hết lòng hy sinh vì chồng con. Nhờ tôi học tại trường tiểu học tư thục Văn Minh (nằm trên con hẻm vào xóm Đất Thánh), hiệu trưởng là ông Đốc Kiệt rất nghiêm khắc và thường xuyên quan hệ với gia đình học sinh để trao đổi thông tin và kịp lúc răn đe những đứa lười học hay ngổ ngáo. Nhờ tôi có được một người thầy tốt liên tiếp dạy tôi nhiều lớp bậc tiểu học. Tôi vẫn nhớ thầy Chín tên Huỳnh Văn Tường, một vị thầy nhân từ và rất tận tâm. Thỉnh thoảng, tuy không có trong chương trình học, thầy vẫn đọc quyển Tâm Hồn Cao Thượng (do Hà Mai Anh dịch theo quyển Les Grands Coeurs của văn hào Ý Edmond de Amicis) cho chúng tôi nghe khiến cả lớp rất xúc động trước những tấm gương về tình thương và tin yêu giữa con người, về lòng yêu nước, công ơn cha mẹ, về tình thầy trò, bè bạn… Tất cả các yếu tố trên đã như một nguồn thực phẩm tốt nuôi dưỡng tâm hồn non trẻ của tôi. Do đó tôi không thích “lêu lổng” như nhiều đứa trẻ cùng xóm. Nhưng nói cho đúng một phần cá tính tốt tôi có được là nhờ tôi muốn “ganh đua” với một anh bạn cùng tuổi gần nhà, tên Nghĩa, gốc người Sóc Trăng, rất siêng học và chịu tìm hiểu mở mang kiến thức. Khi lên đại học Nghĩa học trường Quốc Gia Hành Chính, cùng khóa với Phi, bạn thân của tôi thời học Petrus Ký. Sau này cả ba đứa chúng tôi vẫn liên lạc với nhau dầu mỗi đứa sống một nơi rất cách xa nhau!




Rồi cái Bến Xe Miền Đông trên đường Nguyễn Cư Trinh cũng bị dời đi, cái xóm nhỏ ngày xưa của chúng tôi trở thành một khu phố khang trang hơn. Bọn trẻ ngày xưa cũng tứ tán. Riêng tôi phải bận học “quyết liệt” cho các kỳ thi Trung Học Đệ Nhất Cấp, Tú Tài I, Tú Tài II, thi vào đại học và những kỳ thi lên lớp hàng năm (nếu không đậu phải đi quân dịch!)… nên tôi không còn để tâm đến cái xóm thời ấu thơ nữa. Vào những năm cuối của chương trình học Y khoa tôi thi vào Nội Trú và thường ở luôn trong các BV, ít khi về nhà, vì thế càng xa lần xóm cũ.

Đến giữa năm 1977 tôi được điều động về công tác tại Long Xuyên, An Giang… từ đó trở thành con người của tỉnh lẻ miền Tây, không còn là “dân Sài Gòn” của xóm Sau Mả nữa! 

Tháng 3/ 2002

Nhận xét