Tuy chuyến đi Hà Giang kỳ này chủ yếu là để thưởng ngoạn, du lịch nhưng tôi nhận thấy cũng có một số “nét văn hóa” đáng lưu ý. Chỉ tiếc là thời gian không cho phép với kiểu du lịch “cỡi ngựa xem hoa” như vậy, nên tôi chỉ ghi ra đây vài nét nhỏ,vì thế không tránh được những sai sót:
- Cảnh quan của dòng sông Nho Quế dọc đường đèo Mã-Pí-Lèng tuyệt đẹp! Đứng trên một điểm dừng chân trên đèo nhìn xuống dòng sông uốn khúc dưới thung lũng, bên trên là những dãy núi phủ sương mù, tôi bỗng trào nước mắt vì xúc động. Trong đời, tôi đã có cơ hội nhìn vài cảnh đẹp, trong và ngoài nước, nhưng chưa lần nào cảnh trí thiên nhiên nhìn thấy của đất nước mình đã làm tôi xúc động như thế! Chỉ tiếc là do những chuyến khởi hành mỗi sáng đều sớm quá, sương mù còn nhiều quá. Cái đẹp của cảnh quan nhiều sương mù thì không thể phủ nhận nhưng để chụp được những tấm hình đẹp thì “hơi khó” khi trời chưa đủ sáng và quá nhiều sương mù! Cũng vì vậy để minh họa cho bài viết này, tôi phải “mượn” một số hình trên mạng vì chúng đẹp hơn những tấm do chính tay tôi chụp (xin các tác giả bản quyền thứ lỗi)!
- Điểm đặc biệt là nước sông Nho Quế có màu xanh ngọc bích. Một anh bạn đồng nghiệp ở Canada cho rằng chỉ ở miền Bắc mới có nơi nước sông màu ngọc bích. Nước sông Cửu Long ở miền Nam không thể có màu ấy! Tôi đồng ý, nhưng tôi cũng biết ở một đảo nhỏ ngoài khơi Nha Trang, miền Trung, có một cái đầm màu nước cũng xanh ngọc bích (trong khi ngoài đầm màu nước biển vẫn xanh dương) nên được gọi là đảo Bích Đầm. Do bờ biền phía Tây đảo có hình chữ U tạo nên cái đầm và những dãy núi ở bờ Đông ngăn gió đại dương nên biển trong đấm rất lặng. Tôi nghĩ vì trên bờ có nhiều cây xanh nên màu nước đầm cũng xanh ngọc bích. Vì vậy khi ngồi trên thuyền đi ngược dòng sông Nho Quế tôi đã nhìn kĩ trên bờ nhưng lại không thấy nhiều cây xanh như đã nghĩ. Vách núi trên hai bờ thường màu nâu xám, có khi đỏ, nói chung là ít cây. Vậy có thể dưới lòng sông có nhiều loại tảo hay cỏ màu xanh nào đó, hoặc do con đập thủy điện ở Đồng Văn, Mèo Vạc ngăn dòng nước chảy?
- Nhìn cách bố trí xây dựng trông như “pháo đài” có tường rào cao và những tháp canh của dinh thự vua Mèo tại Đồng Văn, tôi nghĩ đến mối lo về an ninh, phòng thủ của chủ nhân nhiều hơn là những đòi hỏi của thuật “phong thủy” mà nhiều người đã bàn đến trên mạng (tôi được biết tại vùng biên giới này ngày xưa có rất nhiều bọn thổ phỉ). Ba bên là vách núi vững chắc thì cổng chính nhìn ra phải là con đường độc đạo. Ngày trước con đường độc đạo ấy chắc phải là đường rừng để các chiến binh dễ canh gác gìn giữ. Một số người viện lý do phong thủy để “tiếc rẻ” việc phía trước dinh thự không có “đường nước”. Tôi biết trong lịch sử nhiều lâu đài (kiêm pháo đài) ở Âu Châu, do được xây dựng gần sông, đã bị địch quân tấn công tàn phá bởi họ có phương tiện đường thủy chở theo dụng cụ khí tài công phá thành.Tuy nhiên trong một tấm hình chụp toàn cảnh lấy trên mạng, tôi vẫn thấy xa xa trước cổng dinh thự là một con suối nhỏ. Dầu nhu cầu phòng thủ cao thế nào thì nhu cầu về nước cũng quan trọng!
- Về kiến trúc, nhìn tổng quát thì mang ảnh hưởng của Tàu nhưng có một số chi tiết trong nội thất lại Tây (không biết từ xưa đã vậy hay mới có sau khi được trùng tu?). Tôi nghĩ nhà xây xong năm 1907 mà có những kiến trúc kiểu Tây thì “tân thời” quá! Cũng theo tôi khi trùng tu lại những ngôi nhà hay dinh thự cổ, nên phục dựng lại giống như thuở ban đầu của chúng thì mới có giá trị “tồn cổ”! Những cột, chân cột, kèo, đầu hồi, bao lam phòng thờ, mái ngói… của dinh thự rất đơn giản, không chạm trổ gì, cho thấy nhu cầu để ở và an ninh là quan trọng, không phải để “phô trương”!
- Tuy vậy, hoa văn trang trí trên nóc tủ áo xưa của dinh thự, đã long các bản lề, cũng khá tinh xảo, lại trông không giống đường nét các hoa văn trong những ngôi nhà xưa của người Kinh. Điều này cho thấy họ cũng có một trình độ nghệ thuật riêng!
- Tôi hơi bất ngờ khi thấy dưới tấm hình vị vua Mèo trong phòng thờ có treo một cái áo màu xanh với nhiều hình thêu. Với cái nhìn chủ quan tôi thấy cái áo này có vẻ “mới” và to, vừa với kích thước người Kinh thời nay hơn là với người Mèo xưa (ngay người Mèo ngày nay tôi trông thấy đa số họ vẫn nhỏ con?!). Nói về kích thước con người tôi đã lưu ý là chiều cao lối đi dẫn lên vọng gác của người lính Mèo trong dinh thự rất thấp! Ai bước qua lối đi đó ngày nay cũng phải khom mình xuống!
- Tôi cũng khá bất ngờ khi trông thấy trên bàn thờ vị vua Mèo, bên trên ba nải chuối người ta có nhét thêm nhiều tờ tiền giấy thời nay. Tôi không nghĩ đây là phong tục của người Mèo xưa?! Những du khách nước ngoài chắc cũng thấy lạ! Tôi nghĩ không nên để đập vào mắt du khách những “hiện tượng” không phải là truyền thống. Ba mươi năm trước, khi đi Chùa Hương tôi chỉ thấy những tượng Phật dọc đường lên chùa có cái đầu bóng lóang vì khách hành hương sờ lên đó để cầu nguyện cho được sinh con (cũng giống như khách hành hương ở Angkor Wat, Campuchia, sờ vào ngực các tượng vũ nữ Apsara). Đó là một nét văn hóa. Nghe nói ngày nay khác rồi! Quanh tượng Phật nào tại nhiều nơi hành hương cũng có tiền… và tiền! Người ta nhét đủ thứ tiền cho các ông Phật! Chắc để “hối lộ” Phật?! Đó không phải là một nét văn hóa!
- Một điều quan trọng nên ghi nhận là bức hoành treo bên trên cửa chính dinh thự với bốn chữ “Biên Chính Khả Phong” của vua Đồng Khánh ban năm 1923. Nội dung của bốn chữ này có nghĩa là lời ban khen của nhà vua đối với một tôi thần có công trong việc trị an miền biên ải (cũng như các câu ban khen Tiết Hạnh Khả Phong hay Tiết Liệt Khả Phong…). Điều này nên được xem như là một bằng chứng lịch sử (tuy có phần nặng về hình thức) của chủ quyền đất nước miền biên cương này!
(Còn tiếp)
Tháng 3/ 2024
Nhận xét
Đăng nhận xét