ĐẾN THĂM MỘT NGÔI NHÀ CỔ



Ba tuần trước, tôi có đi theo một cậu em vợ dự đám giỗ tại nhà bạn học cũ của cậu ấy ở xã Đại Điền, Thạnh Phú, Bến Tre. Khởi hành từ sáng, thật ra tôi thấy cảnh trí hai bên đường không có gì đặc sắc lắm, vẫn “đều đều” ruộng vườn sông rạch… như hầu hết các tỉnh miền Nam! Gần thị trấn Chợ Lách và vùng Cái Mơn vẫn có nhiều vườn trái cây, hoa kiểng và bây giờ là nghề tháp cây nổi tiếng cả nước. Qua khỏi Mỏ Cày tôi bắt đầu thấy lại màu xanh bóng mát của những vườn dừa và nhớ đến hình ảnh của xứ dừa đã thành danh ngày xưa. Đến vùng này bây giờ tôi mừng vì thấy nhiều cây dừa còn non được trồng trong những khu vườn rộng lớn. Không có cảnh quan hùng vĩ như miền Trung, miền Bắc nên những người muốn phát triển ngành du lịch tại đây phải “động não” nhiều hơn nếu muốn lôi kéo được khách tham quan!


Đến chín giờ sáng, trên đường còn ướt dấu vết của nước triều lên lúc sáng sớm đã tràn vào mặt lộ. Mới đầu tháng hai ÂL mà tôi nghe nói nước mặn đã vào tới đây và sâu hơn, tới con kinh Lách! Dân nhà vườn của xứ Bến Tre năm nay chắc sẽ “cực” rồi!

Sẵn dịp, chúng tôi đến thăm ngôi nhà cổ Huỳnh Phủ cạnh nhà người bạn. Xét về giá trị cổ của ngôi nhà, ngoài lối kiến trúc và hiện vật cổ được gìn giữ khá nhiều, trong ngôi nhà còn có nhiều bức hoành phi câu đối viết bằng chữ Hán làm tăng vẻ trang nghiêm cổ kính. Do trình độ tiếng Hán của tôi chỉ “lõm bõm”, tôi chụp hình các chữ đó để về tra tự điển hầu có thể đọc và biết từng chữ. Cùng lúc tôi cũng cần thời gian để tham khảo ý kiến các “cao nhân” về cái ý của người xưa qua những bức hoành phi đó… (vì đối với tiếng Hán, hiểu từng chữ chưa chắc là đã hiểu ý cả câu)! Do đó sau chuyến đi, dầu muốn viết bài để đăng FB và Blog cá nhân cho xong (để lâu có thể quên) và để giữ đó làm kỷ niệm, tôi đành chậm lại chưa thể viết ngay!



Hôm nay đã có thể ngồi viết, nhưng nghĩ lại có nhiều chuyện “tế nhị” không nên nêu ra, tôi chỉ viết ra đây một ít ghi nhận:

- Đầu tiên, cái tên ngôi nhà viết bằng chữ Hán “Hoàng Phủ” có nghĩa là nhà của họ Hoàng. Tuy nhiên tên gọi thông thường từ lâu nay vẫn là Huỳnh Phủ cho thấy phù hợp với điều ai cũng đã biết, đó là nhiều người miền Trung miền Bắc có họ Hoàng, khi vào trong Nam đã đổi thành họ Huỳnh. Chủ nhân đã cất ngôi nhà này hơn một trăm năm trước là người gốc Huế, ắt cũng thuộc họ Hoàng, sau khi vào Nam đã là họ Huỳnh. Chuyện Hoàng-Huỳnh chỉ là chuyện nhỏ trong chuyện thay tên đổi họ quy mô hơn của người miền ngoài khi vào Nam trong cuộc Nam tiến vài trăm năm trước.

- Hai là cách kiến trúc ngôi nhà (nghe nói) theo kiểu nhà rường xưa xứ Thuận Hóa, mái ngói âm dương, cửa thượng song hạ bản, có 80 cột với hệ thống vì kèo và xuyên trính nối các cột được chạm trổ công phu tỉ mỉ sơn son thếp vàng, các bức hoành phi, trướng, liễn, bài vị… cùng một số đồ dùng nội thất kiểu xưa đẹp một cách sang trọng… khiến ngôi nhà xứng đáng được xếp vào hàng di tích cấp quốc gia (được công nhận năm 2011)!





- Ba là một bức hoành treo cao trên phòng thờ có bốn chữ “Hiếu Để Trung Tín”. Tôi nghĩ ý nghĩa những chữ trên bức hoành đó là lời khuyên răn của chủ nhà (cách nay trên một trăm năm) với con cháu. Lời khuyên răn đó là phải biết giữ đạo làm người! Đối với cha mẹ phải giữ đạo Hiếu. Anh chị em trong nhà phải đối với nhau bằng chữ Để. Đối với nước, với vua phải giữ chữ Trung. Trong các mối quan hệ với xã hội phải giữ chữ Tín! Tôi nhủ thầm, người xưa dưới ảnh hưởng Nho giáo, muốn để lại lời dạy cho con cháu chỉ cần vài chữ ngắn, gọn…!

- Bốn là hai bức hoành mỗi bức có ba chữ, “Thọ Nam Sơn” và “Lan Quế Phương”. Tôi nghĩ “Thọ Nam Sơn” là do rút gọn câu “Thọ Tỷ Nam Sơn”, thường là câu chúc thọ gia chủ khi khách đến mừng tân gia. Đối với “Lan Quế Phương” lúc đầu tôi hiểu nghĩa từng chữ như sau: Lan là một loài hoa đẹp từng được tôn vinh là “vương giả chi hoa”. Quế là một loại cây quý trong rừng, Tào Tháo khi đi đánh trận Xích Bích ngồi trên soái thuyền có mái chèo làm bằng gỗ quế (câu thơ “Quế trạo hề lan tương…” của Tô Đông Pha). Phương là loại cỏ có mùi thơm. Vua Bảo Đại đặt tước hiệu cho vợ là Nam Phương Hoàng Hậu với chữ Phương (chữ Hán có bộ Thảo) theo nghĩa cỏ thơm này! Tuy đơn giản hiểu nghĩa từng chữ là vậy nhưng tôi lại không hiểu ý của người viết. Thời may, một “cao nhân” đã cho biết ba chữ “Lan Quế Phương” là giản thể của “Lan Quế Đằng Phương”, có nghĩa chúc cho con cháu trai gái trong nhà đều tươi tốt, làm rạng danh dòng tộc. Ý nghĩa như vậy do chữ Lan tượng trưng cho con gái trong nhà, chữ Quế cho con trai, chữ Đằng là bay lên, tỏa lên, chữ Phương là hương thơm là danh thơm! Tôi rất đồng ý với cách giải thích này, cám ơn anh bạn “cao nhân”! Ý nghĩa như thế cũng phù hợp khi nhận ra hai bức hoành “Thọ Nam Sơn” và “Lan Quế Phương” là hai câu chúc của ai đó trong dịp tân gia, chúc riêng cho gia chủ và cho cả gia đình dòng họ lâu dài về sau! Tôi chợt nhớ tập tục của người mình trước đây hay chúc nhau có con cái đầy đàn làm rạng danh cho dòng họ! Cũng hay! Điều này cũng giúp ta hiểu được có thời kỳ mà xã hội cần có thêm người lao động và mở mang bờ cõi!

- Năm là trên hai cây cột chính của phòng thờ có ốp chồng lên một lớp gỗ khác, trên đó có viết 24 bài Nhị Thập Tứ Hiếu, chạm xa-cừ rất tinh xảo. Mỗi cây cột có 12 bài, nét chữ tuy nhỏ nhưng vẫn có thể đọc được (nếu giỏi chữ Hán). Có thể nhờ chữ nhỏ nên lớp cẩn xa cừ tinh tế con nguyên trong khi nhiều chữ to viết các câu đối thì đã bị cạy gỡ mất lớp xa-cừ nên khó đọc! Có đủ 24 bài cho thấy ý định của chủ nhân muốn dạy con cháu điều gì!

 




Tôi nghĩ khi đi xem ngôi nhà cổ, cũng như khi đi du lịch, ta nên tìm hiểu đôi chút về những “nét văn hóa” có liên quan đến căn nhà hay địa phương đó. Tôi không biết nên không thể viết về kiến trúc xây cất nhà rường cổ, lại cũng không biết về giá trị đồ nội thất, bàn thờ, giường ngủ, cái bàn khách, bộ trường kỷ cổ… nên chỉ có thể “võ vẽ” đôi chút về những chữ Hán treo trên các bức hoành phi. Tuy bây giờ chẳng còn mấy ai để ý tới cái nét văn hóa “tặng nhau đôi ba câu chữ” của người xưa (mà cụ Lãng Nhân có nói đến nhiều trong tác phẩm “Chơi Chữ” của cụ), nhưng do tính tôi thích “hoài cổ”…nên tìm hiểu thêm để viết bài!

Thật ra sau khi đi một vòng xem, tôi có vài thắc mắc về cách bố trí các bàn thờ, bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ, bàn thờ Phật, bài vị Quan Công và Phúc Chính Thần, bàn thờ vị tổ căn nhà và những người thuộc thế hệ đời sau, về vị trí treo các câu hoành phi, về sơ đồ cây gia phả dòng họ, và cả về chi tiết xây dựng trong đợt trùng tu mới… nhưng không có người giải thích thỏa đáng và rồi chính tôi cũng không muốn hỏi nhiều! Vì thế tôi cũng có ít dữ kiện để viết bài.

 Tuy nhiên tôi vẫn mang nặng một ý nghĩ trong lòng. Khi phục chế, tu tạo những công trình xây dựng mang nét văn hóa cổ, tôi nghĩ ta nên tìm hiểu để trả lại nguyên trạng (càng nhiều càng tốt) những “nét” cổ. Tôi có biết một ngôi đình xưa, khi trùng tu, người ta đem bán hết các cột kèo bằng gỗ cũ, thay vào đấy là những cột kèo đúc bằng xi-măng rồi sơn giả gỗ! Những người phụ trách hướng dẫn tại chỗ cũng nên được tập huấn đầy đủ để có thể giải thích với khách tham quan những “nét đẹp văn hóa” của di tích!

Nhiều người tỏ ý “chê” chữ Hán xưa rồi, học mà chi! Tôi lại nghĩ có hiểu được chữ Hán sẽ giúp ta hiểu nhiều hơn những giá trị văn hóa minh triết của đời xưa! Chỉ tiếc rằng tôi là học trò dở, muốn học tiếng Hán đã lâu mà cũng chỉ biết lõm bõm!

Trái với lệ thường hay lan man viết dài dòng, lần này tôi chỉ có thể viết ngắn thôi!

Tháng 3/ 2024

Nhận xét

  1. Anh bạn Nghĩa Mã đã viết trong comment của FB: "Đúng rồi, nhà được trùng tu và xây dựng thêm , khác với trước 1975 nhiều, khang trang và hoành tráng hơn"....

    Trả lờiXóa
  2. Một bạn khác tên Tiep Nguyen cũng có viết comment: "Ngôi nhà được trùng tu có khác xưa, gần đó có Mộ phần gia tộc, phía sau nhà có vườn rau xanh.
    Men theo con đường đến một Nhà Thờ rồi một con đường với hai hàng cây cổ thụ thật đẹp.
    Bác sĩ Huỳnh Thanh Hiển là hậu duệ của gia tộc nầy."...

    Trả lờiXóa

Đăng nhận xét