ĐI CHƠI NÚI BA THÊ

 ĐI CHƠI NÚI BA THÊ

Tuần rồi tôi đi chơi núi Ba Thê với một đồng nghiệp và một anh bạn nông dân Hòa Hảo. Đến chân núi chúng tôi phải thuê xe Honda ôm lên núi trên đoạn đường pháo binh cũ đã được trùng tu rộng khoảng ba mét dài hai cây số. Tôi rất tiếc vì trời cứ mưa suốt trên đoạn đường đi lẫn về nên không có cơ hội xem và tìm hiểu kỹ nhiều điều từ lâu đã muốn biết. Tuy vậy cũng có được vài ghi nhận, tôi viết ra đây để bạn bè nào biết rõ hơn thì bổ sung hoặc đính chính dùm.

 


-Ngôi “Linh Sơn Cổ Tự”dưới chân núi đã được trùng tu chưa bao lâu, còn giữ vài di vật xưa, đáng kể nhất là tảng đá đen có những hàng chữ Phạn đặt bên cạnh tượng Phật.Trên bệ cao nhất là tượng Phật bốn tay ngổi, bàn tay bắt ấn, phía sau là đầu con rắn phình mang to, chồm lên phủ bên trên… theo kiểu cách những tượng Phật ở các chùa Khmer (theo Phật giáo Nguyên Thủy) chứ không phải tượng thần Vishnu của Hindu giáo như đã được tìm thấy một số khi khai quật di tích Óc Eo (gần đấy). Có vài điều tôi không hài lòng. Đã gọi “cổ tự” mà khi trùng tu lại “màu mè” một cách “bình dân thời nay” quá nên hết cái vẻ “cổ”! Tảng đá cổ sau lưng tượng Phật lại được tô trét thêm bằng xi măng càng làm mất giá trị cổ kính của nó. Chùa cổ của người Khmer xưa mà lại xây thêm nhiều bệ thờ thấp trên đó trưng bày đủ thứ hình tượng theo kiểu các chùa Trung Hoa giống như nhiều đình, chùa, miếu… của người Việt vẫn làm!(Có thể do trước đây ở vùng này có nhiều người Hoa sinh sống?)

-Di tích văn hóa Óc Eo cạnh chùa theo các tài liệu khảo cổ là “kiến trúc cung đình mang tính chất tôn giáo”, có các cổ vật “mang dấu ấn Phật giáo và Hindu giáo. Viết thì “có giá trị”vậy nhưng hiện tại hầu hết các cổ vật đã được đem đi trưng bày tại các nơi khác. Nơi đây chỉ còn sót lại một mớ đá xây tường kích cỡ không đều xếp thành các bức vách thấp ngăn cách từng phòng; giữa các phòng là những rãnh sâu hơn trông giống như đường thoát nước quanh nhà… Không thể biết toàn bộ là kiến trúc gì nên vài người dân trong vùng và anh bạn tôi đoán già đoán non đây là một kiểu “lò thiêu xác” với những rãnh sâu là những đường thông gió?! Có vẻ chỉ là chứng tích có người xây dựng chỗ ở hay để làm gì đó vào thời xa xưa ấy? Cũng nên ghi nhận là kích thước các phòng, dầu được sử dụng với chức năng gì, trông cũng nhỏ so với ngày nay.

-Đường lên núi không còn trạm thu phí nữa, được sửa chữa và đúc bê tông khá rộng để du khách thấy an tâm khi lên núi bằng xe gắn máy (chắc chắn là an tâm hơn so với đi bên núi Tô)… nhưng thật sự không được an toàn lắm vì các rào cản phía bên vực sâu không có đủ và có vẻ không được chắc chắn; vì nhiều đoạn cua vừa rất gắt vừa rất dốc; và vì khi trời mưa thì đường khá trơn trợt do có nhiều lá cây mục và rêu mốc bám… Nếu cứ thu phí để có tiền mướn phu lục lộ thường xuyên chăm sóc con đường thì hay hơn vì sẽ an toàn hơn, nhất là đối với các loại xe tay ga của du khách đang lên núi hàng ngày.

-Hai bên đường không thấy mở ra những con đường mòn nhỏ cho người đi bộ leo lên xem cảnh quan thiên nhiên. Nếu mở ra được nhiều khoảng trống trên núi cho thanh niên đi chơi dã ngoại thì sẽ có nhiều du khách hơn.


-Điện thờ “Đại thạch đao” của một bậc thần tiên uy dũng cái thế nào đó theo truyền thuyết đã lộ ra sau một cơn sấm sét và điện thờ “Thần hổ” vốn là một hang cọp thời xưa, cả hai đều được trình bày và trang trí khá “màu mè bình dân”… Sự màu mè này có vẻ không phù hợp với sự trang nghiêm cần có và cũng không phù hợp ngay cả với những niềm tin thành khẩn dân dã lâu đời của cư dân địa phương. Cái quán lá bán nước giải khát ngay trước điện thờ thần hổ càng làm khung cảnh nơi đây- đã từng là nơi cư trú của “Bạch hổ đại tướng quân”- mất đi cái vẻ “hoang dã” và “linh thiêng” nên có!

-Đứng bên cây cầu sắt trên con suối nhỏ cạnh điện thạch đao tôi nghe kể chuyện về con mãng xà to lớn, cái đầu to bằng thùng phuy, có trong truyền thuyết vùng này từ lâu lắm rồi, và mãi đến nay con thú xứ Phật không ăn thịt người đó vẫn còn theo dòng suối bên dưới mỗi đêm xuống cái giếng cạnh chùa Linh Sơn để uống nước. Nhìn từ miệng hang xa xa bên dưới, dài tới dòng suối dưới chân cầu, tôi không thấy dấu vết có thật của con thú to lớn trườn mình trên cây cỏ… nhưng tôi vẫn thấy vẻ mặt của những người địa phương kể chuyện đều lộ vẻ kính cẩn và sợ hãi chân thành…!

 


-Ngôi “Sơn Tiên Tự” trên đỉnh núi có vị sư trụ trì khá trẻ theo pháp môn Tịnh Độ (nhưng bia mộ vài tháp chôn các sư trụ trì thời trước lại ghi thuộc dòng thiền Lâm Tế), là nơi nghỉ chân cho khách thập phương cuối doạn đường dài lên núi. Chùa nhỏ, hơn tám mươi năm tuổi được trùng tu lại sau chiến tranh, kiến trúc đơn giản, trưng bày trên bệ thờ có vẻ “Việt” hơn. Tôi nhận thấy chùa không có nhiều “chiêu thức” quyến rũ và “làm tiền” du khách như một số ngôi chùa “danh tiếng” khác. Nếu có được chỗ rộng rãi hơn cho những khách hành hương ở lại vài ba ngày đàm đạo Phật pháp cùng sư thì sẽ có nhiều người thích thanh tịnh tìm đến hơn.

-Vị sư Tịnh Độ đáng lẽ theo thói quen “tụng” nhiều sẽ nói nhiều nhưng lại nói khá ít. Điều này khác với một số chùa có các nhà sư  pháp môn “Thiền” đáng lẽ phải “trầm tư” nhiều hơn nhưng nói lại nói khá nhiều!

Tuy nhiên nói nhiều hay ít tùy người và cũng không nên phê phán gì Tôi chỉ không đồng ý tại những nơi tôn nghiêm có các vị sư dùng “môi mép”, thuật bói toán hay thậm chí dùng bùa phép để quyến rũ tín đồ! Tôi cũng không đồng ý những thủ đoạn “thương mại hóa” hoặc “mê tín hóa” với mục đích lừa gạt, thu lợi nhuận bất chính một cách hệ thống của những địa điểm du lịch mang tên tôn giáo hay văn hóa… đang rất thường xảy ra!

-Tôi cũng đã xem một dấu tích “thiêng liêng” đối với người dân địa phương. Đó là dấu chân tiên” với hình dạng một bàn chân trái, to gấp đôi bàn chân trần của người thường, in sâu trên một hòn đá hoa cương to cạnh chùa… Nếu liên kết với những dấu chân trên đá khác trên đỉnh núi Tô, núi Cấm, núi Sập…mà hình dạng thay đổi,lúc thì bàn chân phải ở núi này, lúc thì bàn chân trái ở núi khác…  tạo nên truyền thuyết lâu nay về một sân chơi của các vị tiên ngày xưa (nên còn gọi là Sân Tiên) khi các vị tiên chơi đùa nhảy từng bước từ ngọn núi này qua ngọn núi kia nên để lại dấu chân trên vùng Thất Sơn huyền bí! Tuy nghe kể vậy nhưng nhìn dấu “chân tiên”, tôi biết nó chỉ do con người đục đẽo!

Xứ này còn nhiều truyền thuyết hoang đường lưu hành đến tận ngày nay. Thật ra tôi nghĩ đó cũng là một nét văn hóa. Xứ nào hay nước nào có lịch sử lâu đời mà chẳng có những truyền thuyết hoang đường thể hiện lại những sự kiện hay tâm tư nào đó của con người xứ ấy thời xa xưa. Không nên xấu hổ hay phản đối khi thấy dân mình còn kể chuyện hoang đường ngày xưa, cho rằng họ mê tín. Ngay phim ảnh Holywood văn minh vẫn còn khai thác rất ăn khách trên toàn thế giới các thần thoại cổ Hy Lạp, La-Mã… dầu rất hoang đường và đôi khi rất “tạp nham”!

Ngoài ra cũng nên biết núi rừng Thất Sơn – Ba Thê cũng đã được khai phá trên trăm năm nay trong thời đất nước bị đô hộ. Đã có một số người yêu nước tìm chỗ trốn tránh hay lập căn cứ kháng chiến nơi đây. Do đó cũng dễ hiểu khi có những truyền thuyết được tạo ra… góp phần che chở và “thần thánh hóa” những người làm cách mạng!

 

Tôi rất muốn vùng Ba Thê - Óc Eo này có một khu du lịch văn hóa để quảng bá văn hóa nước nhà, để phát triển kinh tế  và để dân nghèo quanh vùng có thêm thu nhập. Nhà nước chắc cũng muốn như vậy và cũng đã làm… nhưng có vẻ thất bại.

Thất bại chắc do nhiều nguyên nhân nhưng dầu sao tôi vẫn nghĩ rằng một khu du lịch văn hóa phải cố gắng bảo tồn những nét đẹp văn hóa cũ, những nét văn hóa riêng của mình. Đừng lấy lợi nhuận làm chính. Những nét “lôi cuốn” tân tạo nếu có (và thật sự rất thường có) cũng phải thể hiện được cái văn hóa; đừng để những cái “màu mè” hay “vẽ vời” làm xấu đi và làm mất đi giá trị hình ảnh của chính mình!

Tháng 7/ 2014

Nhận xét