MỔ THỦNG RUỘT DO BỆNH THƯƠNG HÀN - NHỚ THẦY PHẠM BIỂU TÂM

MỔ THỦNG RUỘT DO BỆNH THƯƠNG HÀN

NHỚ THẦY PHẠM BIỂU TÂM


 

Đọc bài viết của một bạn cùng khóa Y Khoa đang ở Mỹ về thầy Phạm Biểu Tâm trong ngày Father’s Day năm nay, tôi nhớ đến vị thầy được nhiều thế hệ y khoa Sài Gòn ngưỡng mộ và kính trọng về tài năng và đức độ; về tấm lòng nhân ái và tinh thần nhân bản, tôn trọng con người dầu đó là người bệnh hay chỉ là học trò của thầy.

- Mọi người vẫn còn nhớ câu chuyện thể hiện tư cách người trí thức của thầy khi cô ái nữ của ông bà cố vấn Ngô Đình Nhu quyền thế tột bực thời ấy thi vào trường Y không đủ điểm đậu. Đương nhiên là đã có nhiều can thiệp của giới chức “thẩm quyền”để “vận động” cho cô được trúng tuyển. Thầy là khoa trưởng kiêm chủ tịch hội đồng thi cương quyết không vớt điểm. Cô ấy đành ghi tên học trường khác.

- Sinh viên y khoa thường kể cho nhau nghe câu chuyện thể hiện tinh thần làm việc nghiêm túc của thầy để bảo vệ những quy tắc của ngành y và của bệnh viện. Lúc thầy đang là giám đốc bệnh viện Bình Dân Sài Gòn, văn phòng giám đốc nằm ngay cạnh phòng tiểu phẫu. Một buổi sáng từ văn phòng nhìn qua cửa kính đục phòng tiểu phẫu thấy có vẻ “chộn rộn”; thầy đang mặc áo blouse có đeo cravate mở cửa phòng nhìn vào. Một sinh viên năm thứ hai (là năm mới bắt đầu đi thực tập lâm sàng tại các bệnh viện nên chưa biết mặt thầy) “nhanh nhẩu” tiến tới ngăn cản thầy bước vào vì thấy thầy không đeo khẩu trang và không đội bonnet. Thầy lẳng lặng bước ra. Anh nội trú đang làm tiểu phẫu đã thấy mọi việc nhưng không kịp lên tiếng ngăn cản chú sinh viên đàn em đang “ra oai” với giáo sư giám đốc. Thầy vào văn phòng trang bị “cho đủ bộ” rồi lại trở qua phòng tiểu phẫu. Thầy chỉ quan sát mọi việc trong phòng một cách bình thản rồi một lúc sau lại bình thản bước ra. Thái độ hành xử của thầy cho thấy thầy nhìn nhận việc làm của bạn sinh viên đó là đúng và cho rằng đó cũng chỉ là một việc phải làm, bình thường thôi, không có gì phải “ầm ĩ”!

- Nhiều bác sĩ đàn anh sau khi ra trường đi các nơi hành nghề, có dịp về thăm thầy, kể lại cùng câu chuyện thể hiện một quan điểm của thầy trong việc đánh giá lương tâm trách nhiệm của những người hành nghề y. Tiếp chuyện học trò cũ, thầy hay đặt câu hỏi: Anh đã làm hại ai chưa? Làm chết bao nhiêu người rồi? Hãy kể lại cho tôi nghe!”. Thầy sẽ không vui khi học trò “phấn khởi” kể rằng chưa làm điều gì tổn hại ai. Trái lại thầy rất hài lòng khi học trò cũ kể lại những sai lầm, sơ sót của mình đưa đến tổn hại cho người bệnh, để sau đó thầy trò cùng bàn bạc đánh giá rút kinh nghiệm những sai lầm đó. Sở dĩ có việc như vậy vì thầy có quan niệm là khi một bác sĩ nhận ra được và còn nhớ những sai sót trong nghề nghiệp của mình thì đó là một bác sĩ có lương tâm và sẽ biết rút kinh nghiệm cầu tiến để những lần sau không còn những sai sót tương tự. Không thấy được sai lầm thì có thể sẽ tiếp tục dẫm chân trên những sai lầm cũ. Hiện giờ tôi biết có một số bác sĩ dầu còn trẻ hay đã khá lớn tuổi, đã phạm nhiều sai lầm trong quá trình hành nghề nhưng vẫn chưa rút được kinh nghiệm gì để sửa chữa (dầu kinh nghiệm trong nghề y có cái giá phải trả là sức khỏe và sinh mạng của người bệnh!). Họ lúc nào cũng cho là mình giỏi và chỉ thích phô trương một số “thành tích” đạt được.

- Các bác sĩ và nội trú thường phụ mổ cho thầy đều nhận thấy thầy rất cẩn trọng khi làm các thao tác thủ thuật kỹ thuật mổ và “tiết kiệm” máu bệnh nhân. Nhìn bàn tay thầy mổ, ai cũng phải thấy đó là bàn tay của một “nghệ sĩ” bậc thầy. Nhưng cũng như nhiều vị thầy có tuổi khác, thầy rất cẩn trọng khi chẩn đoán và quyết định phẫu thuật. Qua sự cẩn trọng này, nhờ có thời gian ba năm làm nội trú (đi từ nội trú ủy nhiệm lên nội trú tập sự rồi nội trú thực thụ) tôi đã nhìn thấy ngay từ lúc manh nha sự khác biệt trong phương pháp điều trị và tiến hành phẫu thuật giữa hai thế hệ thầy-trò, già-trẻ, cũ-mới, “trường phái Pháp”-“trường phái Mỹ”…khi có ngọn gió mới là các giáo sư Hoa Kỳ đến giảng dạy chương trình Residency hậu đại học tại các bệnh viện Sài Gòn. Nhiều bác sĩ và nội trú ngoại khoa thích thú với “trường phái Mỹ” tân tiến và “xông xáo” hơn, trở nên có tinh thần mà chúng tôi gọi là “agressif” hơn. Họ có khuynh hướng quyết định phẫu thuật ngay tất cả các trường hợp “chỉ thoáng nghi” là cấp cứu ngoại khoa hoặc còn đang phân vân trong giới hạn giữa điều trị nội khoa và điều trị ngoại khoa. Một thí dụ là anh bác sĩ Trần Xuân Ninh khi dạy sinh viên bài “Mở khí quản” (Trachéotomie) luôn luôn nói: “Khi anh thắc mắc có nên mở khí quản hay không thì đó chính là chỉ định mở khí quản!”. Nhiều lần thầy tỏ rõ chấp nhận việc học trò theo quan điểm “tích cực” nhưng thỉnh thoảng vẫn nhắc nhở: “Các anh nên thật cẩn thận khi quyết định phẫu thuật. Một vết mổ dầu nhỏ như đường mổ viêm ruột thừa Mac Burney thôi thì khi đã mở phúc mạc ra, cái bụng đó sẽ không còn như trước nữa! ”. Tôi lúc nào cũng ghi nhớ câu nói này!


- Cũng với sự khác biệt giữa “mới” và “cũ”, đã có một sự việc đặc biệt liên quan đến thầy, gây sôi nổi một thời ngay trong trường Y vào khoảng năm 1974. Tôi ghi lại chuyện này với sự dè dặt vì chuyện xảy ra đã lâu và tôi không thể tránh khỏi có ý kiến chủ quan. Lúc ấy hàng tháng các bệnh viện tại Sài Gòn luân phiên tổ chức các sinh hoạt học tập chuyên môn, mời các giáo sư, bác sĩ và nội trú các bệnh viện khác đến thảo luận (và đương nhiên có cả
tranh luận giữa những “trường phái” khác nhau của các bệnh viện). Hôm ấy thầy chủ trì buổi sinh hoạt tại bệnh viện Bình Dân với đề tài về bệnh thương hàn có biến chứng thủng ruột. Diễn giả và mọi người tham dự đều đồng ý chỉ định phẫu thuật cấp cứu các trường hợp này. Nhưng một nội trú xuất sắc của khu nội khoa bệnh viện Nguyễn Văn Học, nổi tiếng vì học giỏi và siêng năng đọc sách, đã đứng lên phát biểu ý kiến và thẳng thừng phê phán thầy đã già cũ không kịp cập nhật kiến thức mới vì bên Mỹ đã không còn mổ các trường hợp thương hàn thủng ruột mà chỉ điều trị nội khoa bằng kháng sinh và đặt ống thông mũi-dạ dày (naso-gastrique) . Cả hội trường náo động… nhưng thầy đã đứng lên, trả lời nhã nhặn: “Quả thật chúng tôi đã già nên có thể chậm cập nhật kiến thức, các anh có học được gì mới thì xin hãy chỉ bảo!”. Buổi hội thảo không thể tiếp tục vì không ai muốn bàn thêm về chuyên môn nữa. Mọi người nổi giận và cảm thấy chính mình cũng bị xúc phạm trước cách nói của anh bạn nội trú trên với vị thầy đáng kính.


Ngày ấy tôi đang làm nội trú khoa Tiết Niệu của GS Ngô Gia Hy, tuy cảm thấy trong một số trường hợp, chỉ định điều trị như anh bạn nội trú kia nêu ra không phải là không hữu lý, nhưng tôi cũng tức giận và cũng cảm thấy bị xúc phạm như mọi người khác. Công việc nội trú khoa Tiết Niệu khiến tôi phải học và làm rất nhiều nên tôi không có thời giờ và cũng không muốn tìm hiểu sâu thêm về bệnh lý thương hàn thuộc lĩnh vực nội - ngoại khoa dầu trong phiên trực cấp cứu tại bệnh viện, tôi hay những nội trú các chuyên khoa khác (Ung Thư, Chỉnh Trực…) đều phải nhận giải quyết tất cả cấp cứu ngoại khoa. Sau hôm đó chẳng thấy ai bàn thêm về chuyên môn ý kiến của anh bạn nội trú trên. Vào những phiên trực cấp cứu, gặp các trường hợp thủng ruột thương hàn, các bác sĩ và nội trú tại bệnh viện Bình Dân dầu thuôc chuyên khoa nào, vẫn chỉ định điều trị phẫu thuật cấp cứu ngay, không ai “để đó” điều trị nội khoa!

 

Đến năm 1976 tôi được điều động về bệnh viện An Giang, làm việc tại khoa Nhi rồi khoa Sản; đến phiên trực thì phải giải quyết cả cấp cứu Sản lẫn Ngoại.

Trong giai đoạn khó khăn của những năm 75 – 85, bệnh thương hàn với biến chứng thủng ruột xảy ra khá nhiều.  Đối với loại bệnh rất nặng này, các phương tiện có trong tay của bệnh viện tỉnh rất thiếu thốn. Thiếu trầm trọng các loại kháng sinh (nhất là kháng sinh trị bệnh thương hàn); nhân viên gây mê chỉ có trình độ y tá (chưa được là cán sự hay nhân viên gây mê trung cấp) với thuốc gây mê có trong tay chỉ là Pentothal và Ether; các Curares (thuốc dãn cơ) chỉ còn một ít Anectine; còn máy gây mê chỉ là máy nửa hở EMO với hô hấp hỗ trợ bằng tay bóp bóng…Ngoài ra phòng mổ còn không có được loại đèn soi thanh quản (laryngoscope) và những ống canule cỡ nhỏ dành cho gây mê trẻ em… Trong hoàn cảnh như vậy, tôi chỉ có thể mổ cấp cứu được những trường hợp thương hàn thủng ruột khi người bệnh còn một chút sức khỏe tối thiểu để còn có thể gây mê được tương đối an toàn với điều kiện eo hẹp lúc ấy.

Không chối là những lời phát biểu của anh bạn nội trú “hỗn xược” kia vẫn làm tôi suy nghĩ và trong những tình huống chưa thể mổ được, tôi có nghĩ đến lời anh nói khi quyết định cho mình một chọn lựa. Có những trường hợp bệnh nhân suy kiệt và nhiễm trùng nặng, bụng chướng to vì hơi ruột xì ra trong ổ bụng chèn ép hoành cách mô khiến sự hô hấp thật ì ạch khó khăn, nhất là đối với những em bé quá nhỏ… thì tôi đành phải gây tê tại chỗ, rạch da một lỗ nhỏ rồi đặt vào trong ổ bụng một hoặc hai ông dẫn lưu, hồi sức tích cực, điều trị nội khoa và chờ đợi. Nếu bệnh nhân khỏe hơn (thường chỉ sau vài giờ) tôi sẽ gây mê mổ lần hai để giải quyết chỗ thủng. Kết quả khá bất ngờ là hầu hết những trường hợp được mổ hai thì như thế đều có kết quả tốt hơn so với mổ cấp cứu một thì khi người bệnh đang nguy kịch.

Riêng có một trường hợp em bé khoảng 5 tuổi, tôi không thê mổ lại lần hai vì suy kiệt nặng … vậy mà em bé lại sống được với điều trị nội khoa và đặt thêm ống thông mũi-dạ dày (ngoài ống dẫn lưu ổ bụng đã đặt trước) Em bé sống được có thể một phần nhờ được dinh dưỡng và chăm sóc hậu phẫu tốt  (mà dinh dưỡng thời đó thì có gì khác hơn những hộp sữa đặc có đường nhãn hiệu Ông Thọ (sản xuất trước 75) còn sót lại!).

Sau khi bệnh viện có thêm nhiều bác sĩ ngoại khoa được điều động về, tôi không còn trực cấp cứu ngoại khoa, chỉ còn mổ sản-phụ nên không còn cơ hội mổ các thủng ruột thương hàn nữa nên không có thêm kinh nghiệm.

Hiện nay trình độ chuyên môn, thuốc men và phương tiện tê - mê đều tiến bộ và hiện đại… khiến các cuộc mổ an toàn hơn, chắc các bác sĩ không cần phải nghĩ tới việc mổ thủng ruột thương hàn làm hai thì như tôi đã làm?


 

Dầu sao cũng nên nói thêm là vào những năm tháng thiếu thầy thiếu thuốc và đường sá lưu thông khó khăn trước đây, người dân chỉ còn biết đặt niềm tin vào các vị y tá miệt vườn hay các thầy thuốc Nam địa phương (thật ra các vị này cùng các cô đỡ hương thôn đã góp phẩn đáng kể trong vai trò chăm sóc và điều trị ban đầu cho người bệnh trong những năm đó); nên có rất nhiều loại bệnh đến được bệnh viện khi đã rất nặng. Do đó tôi không chỉ mổ làm hai thì các trường hợp thương hàn thủng ruột mà còn mổ hai thì cho nhiều bệnh nặng khác như “Thủng tạng rỗng”, “Viêm phúc mạc nhiễm trùng”, “Sốc do phá thai”, “Sốc nhiễm trùng vì thận chướng mũ (Pyonéphrose) do sạn”, thậm chí cả trường hợp Trẻ sơ sinh vỡ dạ dày do cấp cứu xoa bóp ngoài lồng ngực… để giải áp cải thiện hô hấp, để giảm tình trạng nhiễm trùng, nhiễm độc… trước khi mổ lần hai để giải quyết nguyên nhân chính.


Giai đoạn khó khăn phải tự mình “xoay sở” tìm phương án điều trị tốt nhất có thể được cho người bệnh như tôi làm đã qua lâu rồi. Các bác sĩ bây giờ có nhiều cơ hội học hỏi thêm trên sách, trên mạng, tra cứu y học chứng cứ… để giúp mình có đủ trình độ ứng phó với những tình huống bệnh lý khác nhau.

Ngày nay đã có nhiều loại kháng sinh điều trị rất hiệu quả bệnh thương hàn. Mắc bệnh mà không được chẩn đoán điều trị kịp thời hữu hiệu hiếm dần đi… Nhưng đã có biến chứng thủng ruột lại nằm nhà cho đến khi suy kiệt gần chết mới tới bệnh viện…thì chắc chỉ còn xảy ra ở các nước có nền y tế chậm tiến! Tôi hy vọng bệnh viện chúng ta không có những trường hợp này để các bác sĩ phẫu thuật khỏi phải phân vân quyết định giữa việc mổ cấp cứu ngay hay có thể chỉ đặt ống hút mũi-dạ dày và điều trị nội khoa.

Nhớ đến thầy Phạm Biểu Tâm, tôi nhớ đến thái độ và lời nói nhã nhặn bao dung của thầy trước một học trò giỏi nên kiêu căng và khá “hỗn” với thầy. Hiện nay các bác sĩ trẻ có được điều kiện học, tham khảo và cập nhật nhiều tài liệu y học mới, có đầy đủ thuốc men và trang thiết bị hiện đại để chẩn đoán sớm và điều trị hiệu quả, an toàn cho bệnh nhân. Các bạn may mắn hơn các thế hệ đàn anh trong giai đoạn khó khăn trước đây phải vừa làm vừa học vừa tự “xoay sở”. Các bạn sẽ sớm là những bác sĩ giỏi… nhưng dầu giỏi tới đâu cũng phải tập có tánh không kiêu căng và không được “hỗn” với những người đi trước mình!

Tháng 6/ 2014

Nhận xét