MÙA GIÓ CHƯỚNG
VÀ SINH HOẠT DÂN MIỀN TÂY
Mỗi lần ngồi trên ghế đá sân tennis bờ hồ Nguyễn Du, Long Xuyên, nhìn ngọn cờ treo bên kia cồn Phó Ba bay bay về hướng Châu Đốc tôi lại nhớ câu “nói lối” trong một bài ca vọng cổ mà nhà văn Sơn Nam đã kể trong tập truyện Hương Rừng Cà Mau:
“Ác ngậm non Đoài
ngọn gió Đông Nam nó thổi mặt nhựt hồi về nơi Tây Bắc…”
Ai nói là cải lương “quê mùa” thì hãy xem lại vài vở cải lương cũ của Hà Triều – Hoa Phượng, Nguyễn Thành Châu…, nghe lại vài bài vọng cổ xưa do Minh Chí hay sau này là Út Trà Ôn… hát, một số bài của soạn giả Viễn Châu, hoặc chỉ cần đọc kĩ câu nói lối trên… để hiểu và có cái nhìn cho đúng hơn! Tác giả bài ca thật là một nghệ sĩ dân gian trí thức, xúc cảnh sinh tình, tả một buổi chiều cuối năm có gió chướng thổi mà chẳng cần phải nói đến buổi chiều, chẳng cần xác định thời gian vào cuối năm và cũng chẳng cần nêu tên ngọn gió chướng… do đó đã làm cậu Xã Nê theo Tây học “ú ớ” vì không hiểu được câu nói lối đó! Chuyện xưa rồi ở làng quê xứ ta về một bài ca vọng cổ mà sao ngày nay xem phim xứ Tây của Holywood tôi cũng thấy giống vậy. Có nhiều cảnh diễn viên chẳng cần nói gì, chẳng cần giải thích gì và cũng chẳng cần hành động gì; chỉ một ít biểu cảm trên mặt, trên thái độ… là đủ cho mọi người hiểu cái hay cái sâu sắc của chuyện phim!
Nhưng thôi cũng tới lúc viết về gió chướng rồi, không cà kê nữa! Nhưng để nói có đầu có ngọn tôi cũng phải trình bày đôi chút về thời tiết khí hậu cả nước trước khi nói riêng về gió chướng miền Nam.
Việt Nam chịu ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới gió mùa (Monsoon). Trong phạm vi cả nước nói chung có hai loại gió chính. Một là Gió Mùa phương Bắc hay gọi là “Gió Bấc” do sai biệt khí áp đất-biển giữa đại lục Bắc bán cầu vào mùa đông và đại lục Nam bán cầu (Úc Châu) cùng thời điểm lại đang vào mùa hè. Chủ yếu gió thổi theo hướng Đông Bắc – Tây Nam từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau, đưa không khí lạnh từ đại lục châu Á và Siberia thổi xuống. Hai là Gió Mùa phương Nam hay gọi là “Gió Nồm” , do sai biệt khí áp đất-biển giữa đại dương Nam bán cầu và đại lục Bắc bán cầu vào mùa hè; thổi từ tháng 4 đến tháng 10, đưa không khí và hơi nước từ Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương từ phía Nam vào đại lục, đem theo mưa nhiều cho các tỉnh miền Nam và Nam Trung Bộ. Một phần ngọn gió này thổi trên vùng vĩ độ cao hơn, xuyên qua đại lục, ngang qua nước Lào và trượt trên dãy Trường Sơn, tạo “Gió Lào” đem đến cáí nóng khắc nghiệt cho miền Bắc và Bắc Trung bộ vào các tháng 6 - 7.
Trong thời chiến tranh Trịnh-Nguyễn và Tây Sơn hơn 200 năm trước, có câu hát dân gian nhắc tới Gió Nồm phương Nam ngoài việc là phương tiện cho ghe thuyền dọc bờ biển ra Trung ra Bắc mua bán, còn được các nhà quân sự thời ấy tận dụng để kéo quân đi trong các cuộc chiến tranh khiến người dân có cảm tình với chúa Nguyễn truyền tụng câu ca dao:
“Cầu Trời cho có gió Nồm
Để thuyền Chúa Nguyễn dong buồm trở ra”
Ngoài hai loại gió mùa chủ yếu trên, VN còn có gió “Mậu Dịch”(Trade Wind) hay “Tín Phong” cứ đều đặn thổi liên tục nhẹ nhàng từ Đông Bắc xuống, không ảnh hưởng nhiều đến khí hậu VN và các ngọn “Gió Đông” (Easterlies) từ tháng 6 đến tháng 11 từ vùng biển Philippine thổi vào, mỗi năm gây chừng chục cơn bão, có khi tàn phá dữ dội, đổ bộ vào các tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ.
Riêng thời tiết miền Tây Nam bộ cũng chịu ảnh hưởng chính bởi hai loại gió mùa trên, nhưng với một số nét đặc biệt:
- Gió Mùa Đông Bắc không ảnh hưởng nhiều như đối với miền Bắc. Gió Bấc thổi qua miền Trung nên không còn lạnh nhiều và không tạo mưa phùn.
- Trong khi Gió Nồm gây ảnh hưởng mạnh, gồm hai thứ gió riêng biệt:
Một là gió Nồm Tây Nam thổi từ vịnh Thái Lan theo hướng Tây Nam – Đông Bắc đem theo mưa từ tháng 4 đến tháng 10. Gió thổi khá liên tục, rất mạnh vào các tháng 6 - 7 tạo “mưa già”. Dân gian gọi gió này là “Gió Nam”. Ai quen sống “an lành” trong thành phố, muốn thưởng thức một trận “mưa gió” cho ra trò, nên đi chơi Phú Quốc một chuyến cho biết vào những tháng này và “hứng gió” tại những resort ven bờ biển phía Tây của đảo.
Hai là gió Nồm Đông Nam thổi từ Thái Bình Dương theo hướng Đông Nam – Tây Bắc. Gió thổi lai rai hơn, từ tháng 10 đến tháng 2 - 3 năm sau, không thổi đều đặn và không mạnh như gió Tây Nam. Lại có đặc điểm là trong ngày, gió thường thổi vào những giờ nước rong (nhiều nước); và trong tháng, thường thổi mạnh hơn vào những ngày có triều cường (high tide). Dân miền Tây gọi là “Gió Chướng”.
Những lúc giao mùa của các loại gió này vào tháng 10 – 11, thường có nhiều cơn lốc mạnh nhưng ít gây bão. Trên các ngã ba sông rộng, người nông dân hay thấy hiện tượng “dành ngọn” hay “sóng dữ” khi các hướng gió giao nhau tạo những “con lốc” nguy hiểm cho ghe thuyền qua lại. Trên vịnh Thái Lan, dân đi biển gọi là hiện tượng “cướp gió” dữ dội hơn, thỉnh thoảng vẫn nhấn chìm một số ghe tàu ngoài biển khơi.
Vậy “Gió Chướng” tại miền Tây Nam bộ chính là Gió Nồm Đông Nam thổi từ Thái Bình Dương ngược dòng sông Cửu Long. Đó là một tên gọi dân gian có tính cách lịch sử, có lẽ xuất phát từ thời người Việt bắt đầu khai phá phương Nam, lúc công cụ lao động còn thô sơ, ghe xuồng chèo chống bằng tay nên thường phải chờ thả trôi theo con nước. Người dân sinh sống chủ yếu nhờ vào thiên nhiên, vào nguồn lợi từ sông nước. Gió Đông Nam làm giảm tốc độ di chuyển của ghe thuyền đồng thời cũng đưa nước mặn vào sông; ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt của người dân. Vào cuối mùa nước đổ, cuối tháng 9 qua đầu tháng 10, ngọn gió thổi ngược dòng nước, ngoài việc cản trở ghe thuyền đang di chuyển xuôi dòng, còn tạo các đợt sóng trên bề mặt sông, ngược chiều dòng nước chảy bên dưới. Các đợt sóng này khi gặp các luồng gió khác cũng thường tạo ra các “xoáy nước” dễ làm chìm các xuồng ghe yếu tay lái.
Ngoài ra, vào các tháng 2 - 3 là mùa khô hạn; cường triều kết hợp với gió chướng đưa nước mặn vào sâu tới Trà Vinh, Bến Tre, Mỹ Tho… Có những năm nước sông cạn kiệt nhiều, gió chướng đưa nước mặn vào tới tận đầu vàm Hàm Luông. Người dân khổ sở vì thiếu nước ngọt để dùng và chưa thể bắt đầu mùa lúa hàng năm.
Những sinh hoạt khác của người dân cũng bị ảnh hưởng, nhưng không phải hoàn toàn bất lợi. Vào những lúc gió chướng thổi nước mặn vào sông lớn, ở miệt dưới như Mỹ Tho, Bến Tre… tôm cá trốn vào trong đồng, không ở ngoài sông nên nông dân không đánh bắt được. Ngược lại tôm cá ở miệt trên từ Biển Hồ bơi theo dòng nước qua Châu Đốc, Long Xuyên tới Cần Thơ (có thể tới tận miệt Cù lao Dung) thì gặp nước mặn phải dừng lại bơi lẩn quẩn tại đấy. Nông dân chỉ cần chờ để đánh bắt, thu hoạch rất nhiều.
Một điều đặc biệt cũng nên biết là trước đây, tù nhân Côn Đảo khi muốn vượt ngục phải đợi ngọn gió Đông Nam đó để thả bè trôi vào đất liền. Đi trái mùa sẽ bị gió khác thổi ra đại dương xa khơi. Còn người vượt biên những năm 75 – 80… từ miệt U Minh, Rạch Giá, Phú Quốc… lỡ gặp ngọn gió này thì … dễ rơi vào tay hải tặc Thái Lan!
Và mùa thả diều mong đợi của mục đồng, của trẻ em thành phố (và ngày nay của cả người lớn) vào tháng 2 tháng 3 cũng nhờ vào ngọn gió Đông Nam.
Cuối cùng, về mặt văn hóa, do có ảnh hưởng rất lớn và nhiều mặt lên đời sống người dân nên ngọn gió chướng đã đi vào văn học nghệ thuật qua các câu ca dao, các bài hát cải lương, các tùy bút, tiểu thuyết và kịch nghệ, phim ảnh….
Tôi lại muốn ngâm câu nói lối:
“Ác ngậm non Đoài
ngọn gió Đông Nam nó thổi mặt nhựt hồi về nơi Tây Bắc…”
Tháng 4/ 2014
Nhận xét
Đăng nhận xét