PHÁC THẢO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KHỐI SẢN / BỆNH VIỆN SẢN NHI AN GIANG

 PHÁC THẢO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN

KHỐI SẢN / BỆNH VIỆN SẢN NHI AN GIANG

 

Vào năm 2020, BS Trần Quang Hiền, GĐBV Sản Nhi tỉnh An Giang có nhờ tôi cho ý kiến về định hướng phát triển Khối Sản của BV. Tôi nghĩ chuyện này phải “dài hơi”, không thể đơn giản trong một buổi nói chuyện hay thảo luận được. Do đó tôi hứa với BS Hiền sẽ viết một thứ như là “Định hương phát triển” gửi tới BS Hiền và các BS của Khối Sản BV Sản Nhi, để các vị đọc rồi thảo luận chỉnh sửa và tổ chức thực hiện.

Phải mất hơn một tháng tôi mới viết xong, gửi BS Hiền kèm theo một bức thư ngắn:

Thân gửi BS Hiền,

Tôi viết bản định hướng phát triển này hơi dài vì cầu toàn. Có thể có những điều tôi đề nghị thì BV đã làm rồi. Nhưng dầu làm rồi mà vẫn nhắc đến để BV làm tốt hơn thì cũng tốt!

Ý kiến chủ quan của tôi có thể gây nhiều đụng chạm nên tôi gửi riêng đến BS Hiền đọc trước. Việc phổ biến dự thảo này đến các BS và nhân viên khoa Sản để thảo luận chỉnh sửa và tổ chức thực hiện như thế nào tùy theo cân nhắc và quyết tâm của BS Hiền và cả BV.

Những điều tôi viết có thể thực hiện được hay không thì đối với tôi không quan trọng. Nhưng tôi nghĩ nhiệm vụ của BS Hiền vẫn là phải tìm cách phát triển cho BV đi lên, phục vụ sức khỏe người bệnh tốt hơn, dầu BV đã cố gắng tiến bộ rất nhiều hơn trước.

Tôi mong BS Hiền và BVSN sẽ sớm có một định hướng phát triển để thực hiện trước khi BS Hiền có thể được điều đi cho những chức vụ khác cao hơn!

Nếu minh không kịp làm, không biết người khác có sẽ nhiệt tình làm hay không?!

BS Sửu

(Tôi gửi dự thảo bằng File đính kèm) 

TÓM TẮT VÀI NÉT CHÍNH

Tại sao phải có định hướng: vì để chuẩn bị có cơ sở BV mới đang được xây dựng + người dân mong chờ có sự thay đổi + yêu cầu của GĐ vì đã từng đọc bài viết về định hướng phát triển Khoa Sản / BVĐKTT AG của tôi gần 20 năm trước.

-Có 3 nguyên tắc khi muốn phát triển: hòan thiện cái cơ bản đã làm được một phần từ chuyên môn đến tổ chức BV + đi vào một số mũi nhọn của y học hiện đại ưu tiến dựa theo mô hình bệnh tật + phát triển y học phòng ngừa.

Các yêu cầu chung: toàn thể NV phải quyết tâm + mục đích chính phải vì người bệnh + phải lo đến đời sống NV để họ yên tâm phát triển.

Các yêu cầu đối với nhân viên: ai cũng phải cầu học, học chuyên môn, học tiếng Anh + phải có tác phong chuyên nghiệp khi làm việc + tránh nghĩ đến quyền lợi riêng tư khi làm việc.

Nâng cao vai trò NHS đã bị xem nhẹ (cũng như ĐD, KTV khác) để họ vừa là người bạn đồng hành với sản phụ vừa là người đồng nghiệp đáng tin cậy của BS

Người trẻ tuổi phải có lý tưởng. Phải xây dựng và thực hiện lý tưởng của mình trước khi bị sa vào dòng đời vật chất của xã hội hiện nay

Khối Nhi cũng phải có định hướng phát triển

 


PHÁC THẢO ĐỊNH HƯỚNG

PHÁT TRIỂN KHỐI SẢN

I-ĐẠI CƯƠNG

A- Tuy khối Sản BV Sản-Nhi AG đã đạt được rất nhiều tiến bộ trong chuyên môn từ ngày trở thành một BV chuyên khoa nhưng vẫn phải phát triển mạnh hơn, để đáp ứng đòi hỏi của người dân cao hơn, nhất là khi khối Sản sắp có cơ sở mới đang được xây dựng to lớn và hiện đại + phát triển để việc hợp tác và chuyển giao kỹ thuật cho tuyến dưới có thực chất và hữu hiệu, giúp người dân ở các vùng xa cũng được chăm sóc tốt như dân TP Long Xuyên + phát triển để có môi trường học hỏi liên tục cho nhân viên khiến BV không tụt hậu so với tuyến trên, tạo được niềm tin của người dân đối với nền y khoa trong tỉnh.

B- Do còn nhiều hạn chế và khó khăn nên tuy muốn phát triển nhanh nhưng vẫn phải tuần tự theo ưu tiên dựa theo mô hình bệnh tật của tỉnh và ưu tiên vì người bệnh.

C- Nói chung chủ trương phát triển phải bắt đầu từ sự củng cố hoàn thiện những nền tảng cơ bản, những điều đã làm được, sau đó mới chọn đi vào những mũi nhọn của tiến bộ y học thích hợp với yêu cầu của người bệnh trong tỉnh.

D- Cũng không thể quên y khoa phòng ngừa là rất quan trọng.

 

II-RÚT KINH NGHIỆM ĐÃ QUA VỀ CHUYÊN MÔN TỪ MÔ HÌNH BỆNH TẬT 2018 VÀ TỪ PHÂN LOẠI MỔ LẤY THAI THEO ROBSON CĂN CỨ TRÊN BÁO CÁO CỦA BỆNH VIỆN

Để phác thảo được định hướng phát triển, trước tiên phải phân tích trung thực tình hình hiện tại rồi mới bàn tới cách phát triển như thế nào. Nhận xét của tôi về chuyên môn chỉ dựa vào ít tài liệu có được nên có thể chỉ phiến diện, đề nghị các BS của BV tự phân tích nhận xét thêm cho đầy đủ.

A-Đọc bản báo cáo về mô hình bệnh tật của BV năm 2018 tôi thấy nhiều bệnh Nội Khoa thường gặp trên sản phụ không được điều trị tại khoa Sản Bệnh của BV mặc dầu trong thời gian mang thai sản phụ có thể có những bệnh lý khác kèm theo. Bệnh rất thường gặp là Tiền Sản Giật lại chỉ được điều trị tại phòng Cấp Cứu, không thấy trong khoa Sản Bệnh.

B-Không điều trị Ung Thư CTC, Thai Trứng và bệnh lý tuyến Vú.

C-Chưa triển khai điều trị một số tiến bộ mới của y học trong khi vài BV khác trong tỉnh (thuộc tuyến dưới) đã triển khai rối!

            D-Tỉ lệ chung của mổ lấy thai (MLT) lên khá cao (50.6%) cũng như xu hướng của nhiều nơi, nhưng lại cao hơn so với cả của Mỹ, 32% (Wilson 2018), là nơi có chỉ định MLT khá rộng rãi. Tỉ lệ riêng của MLT ngôi mông cũng cao tuyệt đối, 100%, và của sản phụ có vết mổ cũ cũng là 100%!

            E-Tỉ lệ MLT trên con so rất cao dầu sản phụ đã có chuyển dạ tự nhiên (31,41%) dẫn đến hệ lụy là khi bà mẹ đó có thai lần sau cũng phải bị mổ.

            F-Việc khởi phát chuyển dạ (stimulation of labor) có tỉ lệ thất bại cũng rất cao (trên con so là 75,53%, trên con rạ là 59,46%) nên sau đó phải mổ… góp phần làm tăng tỉ lệ MLT.

            G-Việc thử thách chuyển dạ (trial of labor) sau sinh mổ hầu như không được áp dụng tại BV (báo cáo của CNHS Thuyên)!

            H-Đã có nhiều MLT vì nguyên do khác, không phải vì lý do chuyên môn, sách Pháp gọi là “MLT tùy ý ” (césarienne de convenance), nhưng các trường hợp này lại không được BV ghi đúng theo ICD 10 (đúng ra phải ghi mã số O82.8 hoặc O82.9 tùy trường hợp). Tuy không được công khai viết ra trên giấy (trên hồ sơ bệnh án) nhưng ai cũng biết những nguyên nhân của việc mổ vì “tùy ý” là: mê tín muốn sinh con vào ngày giờ tốt + sản phụ sợ đau đẻ + sản phụ sợ sa sàn chậu + BS sợ biến chứng băng huyết sau sinh đường dưới và sợ bị kiện + BS mổ vì tiện lợi cho mình.

            I-Ít sử dụng các dụng cụ giúp sinh đường dưới như máy Giác Hút (12 trường hợp sinh bằng VE trong năm 2018), và không có trường hợp nào sử dụng Forceps. Không có báo cáo ngoại xoay thai. Không có làm kích quang chậu.

            G-Số bệnh nhân phải chuyển tuyến trên khá cao chưa kể số người bệnh tự đi lên tuyến trên chắc chắn khá nhiều.  

 

III- ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÁC HOẠT ĐỘNG CHUYÊN MÔN

Với những ghi nhận trên, tôi tạm thời định hình sự phát triển chuyên môn của khối Sản BV như sau:

A-Củng cố hoàn chỉnh các hoạt động chuyên môn đã làm được:

1*Thường xuyên tập huấn lại tay nghề và kỹ thuật đỡ đẻ (kể cả ngôi mông) và cắt may tầng sinh môn của NHS và BS để việc sinh đường dưới an toàn cho con và ít gây tổn hại cho sàn chậu của sản phụ (có 65 trường hợp sa sinh dục nằm tại khoa Phụ với 38 trường hợp mổ). Sách Wilson 2018 cũng còn nói đến sự khéo léo của người đỡ đẻ (skilled) và tại nhiều BV ở Mỹ có trang bị các mô hình giống người (simulator) để các BS tập đỡ đẻ. Tay nghề phẩu thuật và trình độ Nội Khoa của các BS cũng phải thường xuyên được cập nhật và nâng cao. Có thể nói kiến thức Sản-Phụ khoa đầy đủ + kiến thức Nội Tổng Quát và Nội Tiết + kiến thức Ngoại Tổng Quát và Tiết Niệu… hình thành cái kiềng ba chân chống vững cho tay nghề các BS Sản-Phụ khoa.

                    2*Cả BS và NHS đều phải tập huấn lại để làm thật tốt việc theo dõi cuộc chuyển dạ, kích thích sinh và thử thách chuyển dạ; không để tỉ lệ thất bại cao khiến phải MLT.

                    3*Nâng cao và hoàn thiện kỹ năng và hoạt động gây tê-mê hồi sức… góp phần cho cuộc mổ diễn ra an toàn và nhẹ nhàng cho sản phụ và con.

                    4* MLT tuy là một phương thức cấp cứu cho mẹ và con khi cần, nhưng không thể lạm dụng! Cần giảm (hoặc ít nhất không tăng trong thời gian đầu) tỉ lệ MLT hiện nay. Thật ra tuy khuyến cáo của WHO chỉ nên MLT ở mức 15% nhưng ta không cần phải quan tâm lắm đến việc đạt được những con số nào, chỉ cần thật tâm muốn giảm những chỉ định mổ “không cần thiết”!.

        5*Từ vài chục năm nay khuynh hướng của nhiều BV Mỹ là MLT các trường hợp con so ngôi mông. Ta cũng có lý khi theo trường phái này. Tuy nhiên nhiều BV khác trên thế giới vẫn cho sinh đường dưới khi trường hợp ngôi mông đó có nhiều thuận lợi. Một châm ngôn rất xưa trong ngành Sản nhưng bây giờ vẫn có giá trị: “Người kiên nhẫn nhất vẫn là người đỡ đẻ ngôi mông giỏi nhất”! Kiên nhẫn chờ đợi dầu thai trình tiến triển chậm hơn ngôi chỏm. Những cơn co của tử cung đều và tốt sẽ làm đầu thai nhi càng cúi gập tốt! Tôi chỉ nêu như vậy để các BS tham khảo!

        6*Rất nhiều nơi vẫn làm thử thách chuyển dạ trong trường hợp sản phụ có vết MLT cũ. Ngày nay cùng với đường mổ ngang đoạn dưới tử cung, chúng ta còn có điều kiện vô trùng tốt hơn, gây tê-mê tốt hơn, chỉ may tốt hơn, kháng sinh tốt hơn… thì chắc chắn sẹo mổ cũ phải tốt hơn ngày xưa… mà ngày xưa người ta vẫn có làm thử thách chuyển dạ…! Tôi cũng chỉ nêu như vậy để các BS tham khảo!

         7*Đối với việc MLT vì tùy ý; ta có thể hạn chế mổ vì mê tín nhờ tư vấn tốt, hạn chế mổ vì sản phụ sợ đau nhờ tư vấn và áp dụng những phương pháp đẻ ít đau, hạn chế mổ vì sản phụ sợ có biến chứng vùng sàn chậu nhờ cải thiện tay nghề đỡ đẻ và kỹ thuật cắt may tầng sinh môn. Nhưng hạn chế những chỉ định mổ “không cần thiết” vì quyền lợi riêng của BS là một vấn đề khá “tế nhị”. Tôi chỉ có thể cho thông tin là trên Medscape đã đăng kết quả bình chọn năm 2019 về việc xếp hạng the best and the worst những BS. Họ ghi là những BS có làm để thu tiền với những “unnecessary procedures” là “the worst in the profession”!


Bàn về chuyên môn thì tôi phải bàn như vậy. Nhưng cũng phải thông cảm với hoàn cảnh xã hội thật tế hiện nay, không phải lúc nào thầy thuốc cũng có toàn quyền quyết định theo chuyên môn . Tuy BS nhận thấy sản phụ có thể sinh đường dưới được và đã giải thích rõ mà sản phụ và gia đình cứ “nằng nặc” đòi mổ… thì BS cũng đành phải mổ! Trong trường hợp này hồ sơ bệnh án vẫn phải được ghi trung thực, chọn mã số ICD là O82.8. Không được ghi sai lệch (như biến ngôi chỏm thành ngôi thóp trước) để có lý do mổ theo yêu cầu. Càng không được ghi sai lệch để có lý do mổ vì tiện lợi cho BS! Trong trường hợp sản phụ và thân nhân muốn mổ, họ phải viết giấy yêu cầu mổ và cam kết!

                    8*Tuy đã quen tay với những cách mổ của trường phái mình chọn nhưng các BS nên biết thêm những cách mổ khác. Thí dụ khi MLT nên xem MLT ngoài phúc mạc như một chọn lựa thêm (của những BS có kỹ thuật mổ giỏi) khi gặp trường hợp có nhiễm trùng ối hoặc vết mổ cũ gây dính trong ở bụng.

           9*Xem xét việc sử dụng các dụng cụ giúp sanh VE, Forceps khi cần. Nên tập sử dụng chúng thuần thục, nhất là với Forceps. Nên nhớ rằng thời gian đặt một Forceps chỉ mất 1 phút, đặt VE mất 5-10 phút, còn chuyển phòng mổ và chờ các biện pháp chuẩn bị, tiền mê… phải mất khoảng ½ giờ!

                    10*Không thể bỏ hẵn việc chụp kích quang chậu (Radiopelvimetry). Vẫn phải cho chụp khi cần, nhất là khi muốn làm thử thách chuyển dạ.

           11*Hạn chế các thủ thuật xưa cũ gây khó chịu và ngại ngùng cho phụ nữ. Chỉ thăm khám âm đạo (TV) khi thật cần thiết. Thay việc nghe tim thai nhi bởi ống nghe đặt trên bụng bằng máy SÂ, bằng Monitoring…

            12*Không nên bỏ hẵn thủ thuật xoay thai. Các BS (và NHS) vẫn phải tập luyện nội-ngoại xoay thai nhuần nhuyễn trên mô hình phòng khi cần đến. Ngoại xoay thai vẫn có ích trong trường hợp ngôi mông, ngôi ngang. Tập luyện nội xoay thai cũng sẽ giúp cho phẩu thuật viên lấy thai nhi ra dễ dàng hơn khi MLT ngôi ngang mà không làm tổn thương hài nhi và làm rách rộng vết mổ!

 

B-Phát triển để đáp ứng một số bệnh vẫn chiếm tỉ lệ cao trong mô hình bệnh tật địa phương:

                    1*Điều trị ung thư cổ tử cung giai đoạn sớm, nhất là khi sự tầm soát bệnh nguy hiểm này đã có hiệu quả từ nhiều năm nay. Nhiều phụ nữ đã được phát hiện bệnh trong giai đoạn rất sớm, điều trị sẽ đơn giản.

                    2*Điều trị Thai Trứng, kể cả khi bệnh đã hóa ác… vì phương tiện chẩn đoán và thuốc điều trị nay đều có sẵn. Từ vài chục năm trước, khoa Sản của BVĐKTT AG cũng đã điều trị bệnh này rồi dầu trong hoàn cảnh khó khăn với sự theo dõi HCG bằng phương pháp mổ thỏ thiếu chính xác!

                    3*Điều trị một số Thai Ngoài Tử Cung bằng nội khoa, điều này rất nhiều nơi khác đã làm từ lâu rồi!.

                    4*Điều trị bệnh lý lành tính của tuyến vú nhất là bệnh vú xảy ra trong thời kỳ thai nghén và cho con bú có thể cản trở việc bú sữa mẹ.

                    5*Mở rộng điều trị và chăm sóc ban đầu các bệnh lý Sản Bệnh, lưu ý Tiền Sản Giật, Tăng Huyết Áp, Tiểu Đường thai kỳ, Tâm Thần sau đẻ, Cường Giáp, bệnh Gan mãn tính ….

                    6*Điều trị Sa Sàn Chậu và các biến chứng tiểu-đại tiện, sinh dục cũng như các rối loạn tiểu tiện sau đẻ, sau mổ. Chú ý quan điểm bảo tồn chức năng quan trọng hơn hình thể! Đừng xem việc “sửa cửa minh” cho đẹp là quan trọng!

                    7*Siêu Âm tim thai và SÂ cùng các xét nghiệm phát hiện sớm dị dạng tim thai cùng các loại hình dị dạng khác.

 

C-Chọn mũi nhọn để phát triển theo tiến bộ của y học hiện đại:

                    1*Đẩy mạnh hơn thủ thuật Nội Soi chẩn đoán và Mổ Nội Soi.

              2*Áp dụng Reproductive Endocrinology and Infertility. Triển khai điều trị Vô Sinh (không hổ trợ việc chọn giới tính), nhưng phải nhớ điều trị Vô Sinh không có nghĩa chỉ là IUI hay IVF! BS điều trị Vô Sinh phải có kinh nghiệm về nội khoa nội tiết, về sinh lý tình cảm và quan hệ tình dục…

                    3*Áp dụng (nếu có thể) Molecular Biology, Embryology, Genetics

                    4*Sử dụng Robotics (nếu có thể).

                    5*Mạnh dạn áp dụng những kỹ thuật mới đã được Bộ Y Tế khuyến cáo, hướng dẫn.

 

D-Kết hợp với các BV khác của tuyến trên và tuyến dưới:

                    1* Làm tốt hơn hoạt động chỉ đạo tuyến và chuyển giao kỹ thuật cho tuyến dưới để người dân ở địa phương xa vẫn được chăm sóc sức khỏe tốt.

                    2*Có những hình thức kết hợp hiệu quả với các BV tuyến trên, góp phần điều trị hữu hiệu một số bệnh nặng tại chỗ và chống quá tải.

 

E-Y khoa phòng ngừa: Gynecologist as a primary care provider (Novak‘s 2020)

                    1*Làm tốt việc tư vấn bảo vệ sức khỏe phụ nữ và thai nhi.

                    2*Tầm soát để phòng ngừa và điều trị kịp thời các bệnh nặng thường gặp (xem Guide to Clinical Preventive Services, Novak’s 2020).

                    3*Tổ chức Phòng Khám và khoa Sản Bệnh tốt để làm Chăm sóc sức khỏe ban đầu các bệnh thường gặp (Nhiểm trùng Phổi, Tim Mạch, Tiểu Đường, bệnh Tuyến Giáp, bệnh đường Tiêu Hóa, bệnh Thận-Tiết Niệu…).

 

F-Tác phong chuyên nghiệp y khoa:

1*Giao tiếp chuẩn mực, có văn hóa ứng xử tốt với xã hội, trình độ và thái độ tư vấn chuyên nghiệp. Đối xử công bằng và nhân bản với mọi người bệnh và sản phụ. Quan tâm đến chất lượng chăm sóc và an toàn cho người bệnh. Tỉnh táo và khéo léo trước những vấn đề liên quan đến pháp lý.

           2*Lúc nào cũng phải cảnh giác sản phụ và thân nhân để họ hiểu về tính cách bất thường của diễn tiến chuyển dạ (và do đó các BS Sản khi làm phòng mạch tư không nên bảo đảm lo cho sản phụ “mẹ tròn con vuông”!).

           3*Ai cũng phải khiêm tốn và cầu học. Ai cũng phải xem việc học suốt đời là cần thiết cho người bệnh và cho mình… vì người bệnh nào đến BV cũng mong gặp được thầy thuốc giỏi.

                       4*Mỗi người phải góp phần tạo uy tín cho BV bằng cách nâng cao chất lượng công việc của mình.

 

IV-TỔ CHỨC CÁC KHOA PHÒNG VÀ NHÂN SỰ KHỐI SẢN

Với những dự định củng cố và phát triển như trên, BV phải nghĩ tới sự tái bố trí lại các khoa phòng và chuẩn bị nhân sự để tránh bối rối khi tiếp nhận cơ sở mới.

A-Về tổ chức các khoa phòng 

Các BS Sản phải nghiên cứu mô hình tổ chức khoa phòng tại nhiều BV khác để chọn lựa mô hình thích hợp cho sự phát triển của mình . Chắc chắn tổ chức khoa phòng phải khác và tiến bộ hơn tại BV mới so với BV cũ! Chỉ ghi ra đây một số nét cơ bản:

            1*Tổ chức tốt hơn cách tiếp đón và sự bố trí các Phòng Khám, Phòng Cấp Cứu và ICU Sản.

  2*Tổ chức Phòng Sinh thân thiện, Phòng Mổ an toàn, đẻ không đau, hỗ trợ sinh thuận tự nhiên. Tạo điều kiện giúp sản phụ nằm trên bàn sinh thoải mái và rặn sinh hiệu quả nhất (nhiều loại bàn nằm đẻ hiện nay được thiết kế không phù hợp với tư thế nằm và rặn sinh của sản phụ).

   3*Chăm sóc trẻ sơ sinh bằng phương pháp Kangaroo. Tổ chức thật tốt hồi sức cấp cửu trẻ sơ sinh và nuôi dưỡng trẻ thiếu tháng.

               4*Nên sớm tổ chức cấp cứu lưu động và đỡ đẻ tại nhà khi cần (có thể bắt đầu thí điểm tại TP Long Xuyên) nhất là ngày nay hệ thống giao thông và phương tiện truyền thông đã tốt hơn trước rất nhiều.

               5*Tổ chức làm dịch vụ khéo léo để nhân viên có thêm thu nhập, vui vẻ làm việc… nhưng cũng không vì đó mà lợi dụng người bệnh!

 

B-Về nhân sự

Lúc nào cũng phải tâm niệm con người là quan trọng. Cùng với sự phát triển về chuyên môn, BV phải lo đào tạo và xây dựng con người!

            1*Tính toán và bố trí số lượng nhân sự theo tổ chức khoa phòng tối ưu mà mình đã chọn.

            2*Thử bố trí nhân sự hiện có (BS, NHS) xem chỗ nào còn thiếu mới có cơ sở đề nghị bổ sung hợp lý.

            3*Tiêu chuẩn chính để tuyển mộ người chuyên môn là trình độ chuyên môn, đánh giá qua phỏng vấn chứ không nhìn vào bằng cấp.

            4*Chọn lựa kĩ lãnh đạo các khoa, phòng. Chú ý đào tạo những người trẻ có nhiệt huyết.

            5*Lập danh sách (BS, NHS) để tuần tự bồi dưỡng chuyên môn thường xuyên tại chỗ theo kế hoạch.

            6*Lập danh sách (BS, NHS) để gửi học tuyến trên ngắn và dài hạn theo nhu cầu của BV.

            7*Đào tạo nhân sự mới tuyển mộ theo nhu cầu cần phát triển trong tương lai.

            8*Kết hợp đào tạo nhân sự cho BV tuyến dưới (BS, NHS, KTV gây tê-mê)  đồng thời nhờ cơ hội này sẽ có thêm người làm việc.

            9*Kết hợp Viện-Trường tốt đóng góp cho sự đào tạo học viên y tế (đặc biệt là các lớp NHS) có kỹ năng, khi ra trường họ có thể đảm nhận công việc ngay. Đồng thời nhờ cơ hội này BV có thêm CN Hộ Sinh của trường tiếp giúp công việc huấn luyện.

            10*Lưu chuyển nhân sự định kỳ (nhất là với các BS) để tay nghề chuyên môn được phát triển đều.

            11*Xin (và đòi hỏi) cơ chế thoáng để thu hút nhân tài. Càng thu hút được nhiều người có trình độ và năng lực càng tốt. Cũng nên nhớ người có bằng cấp cao hiện nay chưa hẵn là nhân tài!

C-Riêng về Nữ Hộ Sinh:

Từ rất lâu đời, người NHS luôn là “bạn đồng hành” thân thiết của sản phụ. Chúng ta cũng đã có rất nhiều NHS tài năng nhiều kinh nghiệm. Ngày nay nhiều nước trên thế giới đã xếp NHS là một chuyên môn riêng của ngành Điều Dưỡng có giá trị nghề nghiệp ngang hàng với công tác điều trị của các BS. Tiếc rằng giá trị nghề nghiệp này đang bị chúng ta đánh giá thấp (một cách sai lầm)! Vậy phải “vực dậy” để tái nâng cao vai trò người NHS (nhưng cũng phải khéo léo để không phạm vào quy chế - đã lạc hậu - của Bộ viết trong quyển Quy Chế Bệnh Viện)!

            1*Cần đào tạo Thạc Sĩ và Tiến Sĩ Điều Dưỡng Hộ Sinh (trong nước và ngoài nước) để họ làm “đầu tàu” xây dựng lại ngành hộ sinh.

            2*Quy định chặt chẽ về quyền và chức năng của NHS trong việc theo dõi cuộc chuyển dạ, theo dõi kích thích sinh và theo dõi thử thách chuyển dạ. Họ sẽ trở lại làm người “bạn đồng hành” lúc nào cũng ngồi bên cạnh sản phụ để an ủi, giải thích… trong khi vẫn theo dõi sát cơn co tử cung, tim thai và diễn tiến nói chung của cuộc chuyển dạ… để nhận biết sớm và thông báo kịp lúc cho BS khi phát hiện những bất thường.

            3* Nên cho phép NHS thêm quyền sử dụng rộng rãi hơn một số thiết bị khi theo dõi chuyển dạ như máy SÂ xách tay, máy Monitoring sản khoa (nhưng nhớ phải có ghi trong các quy trình chuyên môn tại Phòng Sinh).

   4* Cần phải có hợp tác tốt và bình đẳng giữa NHS và BS xem đó là một điều kiện để phát triển BV. Được vậy NHS chẳng những sẽ là người “bạn đồng hành” của sản phụ mà cũng là đồng nghiệp đáng tin cậy của BS!

 

V-CÁC HOẠT ĐỘNG CHUYÊN MÔN KHÁC

 

A-Tổ chức nghiêm túc có bàn luận thật kĩ các cuộc hội chẩn tại chỗ. Nếu cần, tổ chức hội chẩn từ xa với các BV tuyến dưới hoặc tuyến trên.

B-Tổ chức chu đáo các sinh hoạt chuyên môn và kiểm thảo tử vong, coi như đó cũng là một cách để cùng học. Phải xác định nguyên nhân ban đầu gây tử vong theo WHO để có kế hoạch phòng chống tử vong từ ban đầu.

C-Sinh hoạt khoa học kỹ thuật: Tất cả thành viên trong BV phải tham gia NCKH. Phải biết tự đặt câu hỏi về chuyên môn trong quá trình làm việc của mình để tìm câu trả lời hầu làm tốt hơn việc phục vụ sức khỏe người bệnh. Người chuyên môn y tế nên phối hợp với CN điện toán trong tính toán và kiểm định thống kê các dữ liệu có được.

Khuyến khích các nghiên cứu lâm sàng rút kinh nghiệm những việc đã làm và ứng dụng những thành tựu y học mới. Viết được các bài nghiên cứu có giá trị để đăng được trên các tập san y học có uy tín trong nước và quốc tế. Tuy phải đọc rất nhiều các bài báo cáo khoa học để có thêm kiến thức và kinh nghiệm, nhưng lúc nào cũng phải có “cái đầu tỉnh táo” dầu tài liệu được trích đăng từ những thư viện “chứng cứ”!

D-Các BS phải thực hiện chẩn đoán đúng theo ICD 10, tạo dễ dàng cho việc thống kê và nghiên cứu. Các Trưởng Khoa và Trưởng Phòng Kế Hoạch Nghiệp Vụ phải thường xuyên kiểm soát việc chẩn đoán này.

E-Nghiêm túc thực hiện quản lý chất lượng, các quy trình hoạt động chuyên môn và phân công nhiệm vụ chức trách cá nhân (theo ISO về thực chất, không cần chứng nhận đạt ISO chỉ cho có hình thức).

F-Xây dựng mô hình bệnh tật hàng năm và các số liệu thống kê về mortality và morbidity của mẹ và con.

G-Chuẩn hóa và kiểm định thiết bị y tế chặt chẽ. Hợp đồng với các Physicist (Vật Lý gia) hay Kỹ Sư thiết bị để bảo trì thiết bị nhất là với các loại hiện đại đắt tiền.

H-Nâng cao trình độ tiếng Anh của BS, NHS… Giỏi tiếng Anh sẽ giúp mở được nhiều cánh cửa cho người trẻ.  Ai cũng phải đủ trình độ để có thể tham khảo sách và tài liệu trên mạng, tham gia thảo luận tại các hội nghị y khoa quốc tế. BV có thể tổ chức học chung nhưng cá nhân nên tự học riêng.

Tiện đây tôi giới thiệu quyển sách học tiếng Anh “Giao tiếp bằng tiếng Anh trong ngành Y” (Communication in English for Vietnamese Health Professionals) của BS Nguyễn Đình Vân, Canada.

 

VI-CÁC HOẠT ĐỘNG KHÔNG CHUYÊN MÔN

A-Toàn BV từ các khoa phòng đến BGĐ phải thực hiện quản lý chất lượng theo ISO. Lãnh đạo phải có cái nhìn “bén nhạy” trước những con số thống kê từ các khoa-phòng chức năng! Một thí dụ là thống kê bệnh tật năm 2018 có 1484 trường hợp tử cung bị dị dạng bẩm sinh thì không thể tin được! Trông thấy kết quả thống kê về sự hài lòng của người bệnh gần 100% thì cũng đừng vội mừng!

B-Đánh giá đúng năng lực của từng nhân viên để động viên khen thưởng người tài và mạnh dạn loại bỏ những người đã thiếu tài mà còn thiếu đức!

C-Kiểm soát, quản lý kỷ luật chung của BV và các hoạt động liên quan đến tài chính, BHYT. Lưu ý quản lý tốt tiền thu dịch vụ và phân chia công bằng tiền lương tăng thêm để kích thích sự hăng say làm việc và tinh thần kỷ luật.

D-Khối Nhi cũng phải phát triển đồng bộ với khối Sản, cũng phải có định hướng phát triển trước khi dự án xây tòa nhà cho khối Nhi được duyệt.

 

VII-TIẾN TRÌNH THỰC HIỆN ĐỊNH HƯỚNG

A-Giám Đốc BV gợi ý một tầm nhìn mới trong hoàn cảnh mới và quyết tâm thực hiện.

B-Viết phác thảo định hướng.

C-Họp góp ý và xét duyệt (phải nhiều kỳ họp); những người tham dự phải cùng tích cực thảo luận đóng góp.

D-Viết lại phương án chi tiết hơn (có thể phải viết lại nhiều lần mới xong). Ban soạn thảo gồm đại diện BGĐ, lãnh đạo các khoa, các BS Sản có trình độ và nhiệt tình, Hộ Sinh Trưởng, CN Hộ Sinh….

E-Phổ biến và phân công.

F-Tổ chức thực hiện và có giám sát chặt chẽ. Không chậm trễ. Mọi người phải toàn tâm. Cố gắng khi khánh thành BV mới thì phương án đã thực hiện được bước đầu rồi.

Nếu mọi người cùng quyết tâm, có thể phải mất 3-4 năm mới hoàn thành.

Long Xuyên, tháng 2/ 2020

Nhận xét