SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÔN NGỮ VÀ ĐÁNH VẦN TIẾNG VIỆT
Trên diễn đàn của các bạn cùng lớp đã tứ tán của tôi, một chị bạn đang sống ở Pháp có nêu ra một câu đố (đặc biệt dành cho số bạn đang sinh sống tại các nước nói tiếng Pháp như Pháp, Bỉ, Thụy Sỉ, Canada…) và chị còn cẩn thận ghi thêm lưu ý rằng câu đố này không chỉ là đố suông vì có lý do để đố.
Câu đố như sau :
Trong hai câu này, câu nào viết đúng chính tả :
1-Les crêpes que j’ai mangé
2-Les crêpes que j’ai mangées
… Rồi nhận thấy các bạn không hiểu lắm ý của mình nên chị lại mau mắn tự trả lời rằng cách viết (2) là cách cũ theo ngữ pháp truyền thống của Pháp (l’accord du participle passé employé avec l’auxiliaire avoir si le complément d’objet direct est placé devant le verbe)… còn cách viết (1) do người Canada nói tiếng Pháp “cải biên” để đơn giản hóa (cho rằng quy định ngữ pháp như trên cầu kỳ, không cần thiết) và thể hiện sự bình đẳng giới (tiếng Pháp có phân biệt giống đực - giống cái nhưng ngữ pháp quy định một tập hợp có một đực và dầu mười hay trăm ngàn cái thì tập hợp đó cũng được coi là giống đực)! Các nước khác nói tiếng Pháp cũng đang có khuynh hướng theo thay đổi này!
Chuyện về tiếng Pháp đã vậy, chuyện tiếng Anh còn thay đổi “tích cực” hơn nhiều. Tôi nhớ học sinh các trường Việt từ năm 1960 được học môn sinh ngữ tiếng Anh với quyển Let’s Learn English rồi sau đó là Practise Your English. Chỉ vài năm sau bộ English For Today được phổ biến với nhiều tiến bộ hơn về cách dạy và ngữ pháp. Rồi đến Streamline … và nhiều sách nữa… Đến bây giờ… nhiều trường dạy tiếng Anh có tiếng ở các thành phố lớn đã muốn soạn riêng sách giáo khoa để dạy trong trường mình. Ngữ pháp tiếng Anh ngày càng đơn giản nhưng vẫn rất rõ và chặt chẽ, dễ học. Ngày nay chúng ta đọc tiếng Anh dễ dàng không giống như thời Shakespeare viết Hamlet với thứ tiếng Anh thời trung cổ! Có lẽ cũng nhờ vậy tiếng Anh bây giờ đã trở thành một thứ ngôn ngữ của thế giới vì dễ học và ngữ pháp rõ ràng, chính xác!
Điều này nói lên sự tất yếu có thay đổi và tiến bộ theo thời gian của các ngôn ngữ và ngữ pháp trên thế giới. Từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước GS Noam Chomsky (người Mỹ, sinh năm 1928) nghiên cứu và tìm ra một thứ “ngữ pháp hoàn vũ” (universal grammar), nghĩa là theo ông rất nhiều thứ ngôn ngữ trên thế giới vốn có ngữ pháp gần gần giống nhau được ông “đúc kết” lại trong một thứ ngữ pháp chung, từ đó tất cả học sinh trên thế giới có thể thống nhất cách học ngữ pháp của dân tộc mình dựa theo “ngữ pháp hoàn vũ” đó! Tại Việt Nam, GS Trần Ngọc Ninh tuy là bác sĩ dạy tại đại học Y khoa (Sài Gòn) nhưng cũng say mê nghiên cứu ngôn ngữ Việt, cũng đã xuất bản phần đầu bộ Cơ cấu Việt-ngữ của mình từ năm 1969, dựa theo phát kiến của Chomsky. Chưa hết, năm vừa rồi tại Mỹ, ở tuổi 94, GS Ninh đã xuất bản (và tái bản) thêm những quyển cuối của các bộ sách :
-Ngữ-pháp Việt-Nam
-Cơ cấu Việt ngữ
-Dạy đọc dạy viết tiếng Việt – Phương pháp mới theo âm vị học (Sách của thầy cô giáo và cha anh)
-Ngữ vựng tiếng Việt đầu tiên – Cho tuổi 5 năm-15 năm.
Trở lại chữ Quốc ngữ mà chúng ta đang sử dụng. Từ thời Alexandre De Rhodes đến nay đã hơn 300 năm ; biết bao học giả, trí thức đã không ngừng góp phần vào việc hoàn thiện để người Việt sử dụng nó… Tuy thế ta phải nhìn nhận là chữ Quốc ngữ đến nay vẫn còn một số khuyết điểm… Vì vậy vẫn có nhiều nhà ngôn ngữ học tiếp tục tìm thêm những phương án để sửa đổi.
Vào thập niên 50-60 của thế kỷ trước, nhà giáo Trần Cảnh Hảo của trường Pétrus Ký Sài- Gòn nhận thấy chữ Quốc ngữ (viết theo chữ cái La-Tinh) còn nhiều thiếu sót nên phát kiến một lối chữ viết mới mà ông gọi là chữ Nam (kết hợp giữa chữ Hán và âm Việt), in thành sách và lẳng lặng dạy học trò của mình mặc dầu Bộ Quốc gia Giáo dục thời ấy không chấp nhận và không đồng ý đưa vào dạy thực nghiệm! (Cũng nên biết vào năm 1960 một ngôi trường được gọi là Trung học Thực nghiệm tại Thủ Đức được làm lễ đặt viên đá đầu tiên để xây dựng, có TT Diệm chủ tọa).
Sở dĩ tôi “dông dài” chuyện này vì hiện nay trong nước đang “nổi sóng” với những tranh cãi và phê phán quanh công trình về cải cách chữ Việt của GS Bùi Hiền và phương pháp đánh vần theo “công nghệ giáo dục” dành cho trẻ học lớp 1 của GS Hồ Ngọc Đại.
Theo dõi những tranh luận này tôi thấy gần như có ba khuynh hướng. Một là những phê bình nghiêm túc có khen có chê của một số nhà trí thức trong-ngoài nước; hai là những lời chê nhiều hơn khen nhưng với những lập luận cũng khá hữu lý ; ba là những bài viết mang tính mạt sát cá nhân mà tôi không muốn đọc… ! Nhưng dầu sao nhìn toàn cục vấn đề ta cũng phần nào có thể hiểu được “tâm lý” của quần chúng. Có thể do quá trình người dân bị “mất tin tưởng” nhiều lần đối với những sự việc liên quan đến giáo dục trong thời gian qua… nên bây giờ cứ nghe đến điều gì có mang tính “cải cách giáo dục” là người dân “dị ứng” và vội phản ứng ngay !
Như tôi đã trình bày ở trên, các học giả và những nhà ngôn ngữ học từng quốc gia cũng như quốc tế đều không ngừng tìm tòi nghiên cứu để phát triển trong lĩnh vực này. Hai ông Bùi Hiền và Hồ Ngọc Đại cũng chỉ làm công việc của nhà nghiên cứu thôi! (Vì có học hàm giáo sư nên hai ông lại cần phải có nghiên cứu… nhất là khi trong nước có nhiều tai tiếng về việc tiến sĩ giáo sư được phong thì đông… mà con số công trình tìm tòi nghiên cứu lại chẳng được bao nhiêu !). Không hẵn là ngôn ngữ, nghiên cứu của ông Bùi Hiền là cải cách chữ viết tiếng Việt, còn của ông Hồ Ngọc Đại là cách dạy học, cách học đánh vần.
Trong thời gian qua, nhiều người chỉ với chủ ý muốn phê phán nên thường gộp cả hai công trình của hai ông để chỉ trích. Thật ra hai công trình đó khác nhau, hai sự việc xảy ra khác nhau, cần được xét riêng.
Phải minh định là cá nhân tôi không đủ trình độ và tư cách để bàn luận sâu về giáo dục và ngôn ngữ trong tình hình đang “nổi sóng” này. Mọi người nên đọc những lời bàn nghiêm túc trên các phương tiện truyền thông và trên mạng rồi bình tâm nhận xét. Riêng tôi chỉ xin phép được ghi vài ý kiến :
-Công trình của GS Bùi Hiền dầu sao vẫn chỉ là một “đề xuất” của tác giả về cải cách chữ Việt. Tuy rất công phu, thể hiện nhiệt tình của tác giả… nhưng công trình lại nhiều phần không khả thi… nhất là trong tình hình khó khăn hiện nay, chúng ta còn rất nhiều chuyện cần phải sớm đổi mới về giáo dục… ! Nhiều học giả đã bàn chuyện này rất chí lý. Vài viên chức có thẩm quyền về giáo dục cũng đã xác nhận là chưa tới lúc nghĩ đến việc cải cách chữ viết hiện nay… ! Vậy thì không nên “soi mói” thêm ! Tôi cũng không phải viết gì thêm.
-Công trình của GS Hồ Ngọc Đại về cách dạy đánh vần tiếng Việt cho trẻ em lớp 1 theo công nghệ giáo dục mà ông “ấp ủ” từ rất lâu rồi… rất đáng để bàn. Nhiều học giả trong-ngoài nước cũng đã bàn sâu về chuyên môn rất hay rồi. Vấn đề là phương pháp đánh vần này đã được dạy thực nghiệm ở một số trường từ nhiều năm nay trong khi chờ Bộ xây dựng xong chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới sẽ được áp dụng từ năm 2020, trong đó một môn học sẽ có nhiều sách giáo khoa để các trường, các thầy và phụ huynh lựa chọn… Vậy thì tôi cũng chỉ có thể tóm tắt ý của mình như sau :
+ Chủ trương xây dựng chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới là đúng đắn cho sự cải cách giáo dục của chúng ta. Phương pháp của GS Đại đã được dạy thực nghiệm từ nhiều năm rồi mà chưa thấy ai phản ứng ; nay vần đề lại “nổi sóng” ! Vậy nên kiểm tra việc đưa vào dạy thực nghiệm phương pháp này từ nhiều năm nay có đúng lộ trình hay không ?
+ Cần công khai hóa những đánh giá của Hội đồng nghiệm thu có tầm cỡ đã thực hiện về giá trị của công trình và những thay đổi (tích cực) của tác giả với những phản biện. Bình thường việc công khai này có thể không cần thiết nhưng một khi vấn đề đã “nổi sóng”… thì dư luận cần phải biết rõ để hiểu và tránh được những phê phán ác ý !
+ Cần đánh giá lại một cách có bài bản khoa học về hiệu quả đạt được sau thời gian đã dạy thực nghiệm ở một số trường (dạy cũng khá lâu rồi !). Không thể dựa vào vài nhận xét chủ quan, dầu đó là nhận xét của vài người nổi tiếng. Có như thế các trường tiếp theo được (hay bị) dạy thực nghiệm sẽ không thắc mắc !
+ Cần xác định lại quy trình, các bước phải tiến hành… khi muốn áp dụng giảng dạy một công trình nghiên cứu tốt nhằm mục đích “đổi mới” cái cũ vốn có nhiều khuyết điểm. Điều này cần thiết để giải tỏa được những nghi ngờ về “lợi ích phe nhóm” mà vấn nạn này đang gây nhiều tai tiếng hiện nay!
+ Cũng không quên bàn đến cái “cost effect” tức hiệu quả đạt được so với tốn kém phải bỏ ra khi áp dụng cái mới. Tôi có nghe trong một vidéo-clip, GS Đại nói các sách giáo khoa của chúng ta làm “tốn tiền” lắm… ! Cần lưu ý đến “tiền” khi xuất bản các sách giáo khoa… vì đất nước và người dân chúng ta còn (rất) nghèo!
+ Ngoài ra tôi cũng xin được nói thêm về một ý mà GS Hồ Ngọc Đại đã có phát biểu trong một cuộc họp báo. Mặc dầu không thể nghi ngờ gì về trình độ, về tinh thần yêu nghề yêu trẻ và phục vụ giáo dục của GS Đại, tôi lại không đồng ý khi ông cho rằng các bậc cha mẹ có biết gì khi muốn dạy con sau giờ học ở trường ! Tôi không biết các bậc cha mẹ “thời hiện đại” nghĩ sao ?! Theo tôi cái truyền thống tham gia dạy con học của người Việt rất đáng trân trọng và gìn giữ (chắc không cần phải bàn sâu ?!). Hình ảnh những người mẹ tuy ít học nhưng vẫn tham gia đánh vần với con trẻ đã và vẫn làm tôi cảm động và thấy nó thật sự có ý nghĩa trong sự giáo dục con người. Nếu phương pháp dạy của GS Đại thật sự hay… và nếu cần… thì các bậc cha mẹ cũng sẵn sàng theo học cách đánh vần đó… để cùng đánh vần với con mình ở tuổi trẻ thơ!
Dầu sao cũng phải nhắc là GS Trần Ngọc Ninh trong tựa đề ngay trang bìa quyển “ Dạy đọc dạy viết tiếng Việt – Phương pháp mới theo âm vị học ” của mình, cũng đã cẩn thận ghi thêm “ Sách của thầy cô giáo và cha anh ” ! Đó cũng là quan điểm của một người thầy mà ta phải lưu ý!
Ở tuổi trẻ thơ chúng ta đừng nên tách rời hình ảnh của thầy cô và cha mẹ !
Nhận xét
Đăng nhận xét