VÀI NHẬN XÉT VỀ VIỆC HỌA THƠ
Trò chơi nào ít nhiều cũng có quy định luật chơi, thí dụ những môn chơi thể thao như túc cầu, tennis…thì luật chơi được quy định khá nhiều, khá chặt chẽ. Họa thơ là một trò chơi tao nhả của những nhà thơ trước kia, nay cũng còn tiếp tục, tất cũng phải có luật chơi. Vậy mà khi xem những bài thơ họa với bài “Sự Đời” của Thúy Phượng, thật ra đã đăng từ hai năm trước, tôi thấy có tác giả viết rất “tự do”, không để ý tới việc họa ý và họa vần với bài xướng.
Để có thể xác minh có một thứ “luật” họa thơ, tôi tìm đọc bài viết “Lịch Sử Họa Thơ” của nhà thơ Phan Thượng Hải, cũng là đồng nghiệp, qua phanthuonghai.com và biết được nhiều chuyện hay.
Qua website của bạn Hải tôi ngạc nhiên và thích thú biết rằng những nhà thơ Việt đã họa thơ với nhau từ vài trăm năm trước, hầu hết là thể thơ thất ngôn bát cú, trong khi đó, rất ít thấy những bài xướng họa của chính các nhà thơ Trung Quốc thời Đường, Tống! Ban đầu đương nhiên những nhà thơ xứ ta phải viết thơ bằng chữ Hán, rồi Hán Nôm. Đến khi chữ Quốc Ngữ được phổ biến thì việc họa thơ ngày càng nhiều.
Ban đầu việc họa thơ có “hợp ý” hay “hợp” vận, chắc chỉ là “tự phát” của nhà thơ, chưa có ai đặt ra luật lệ cả nhưng tự ai cũng thấy đó là điều phải lẽ, nên làm!
Bài thơ xướng rất xưa “Ngự Chế Tao Ngộ Thi” của vua Lê Thái Tông và bài họa “Ngự Chế Tao Ngộ Thi Phụng Họa” của Nguyển Trải, vừa hợp ý và cũng hợp vần với nhau cả năm vần “hồi, lai, tài, đài, mai”.
Đến thời Mạc Thiện Tích ở Hà Tiên, ông Nguyễn Cư Trinh đã họa những bài Hà Tiên Thập Vịnh của nhóm Tao Đàn Chiêu Anh Các, cũng hợp ý nhưng chỉ hợp vần với một chữ cuối của câu đầu các bài thơ đó. Lối họa thơ chỉ trùng vận đầu như thế, về sau được ông Nguyễn Vỹ phổ biến trong tạp chí Phổ Thông.
Nhưng đến bài “Từ Thứ Quy Tào” bằng chữ Hán Nôm của ông Tôn Thọ Tường lại được ông Phan Văn Trị họa hợp cả ý và cả năm vận của bài xướng.
Riêng chuyện họa thơ bằng chữ Quốc Ngữ có ông Phan Bội Châu (phái Thơ Cũ) họa ba bài thơ của ông Hàn Mặc Tử (phái Thơ Mới): “Thức Khuya”, “Gái Ở Chùa”, “Chùa Hoang”… vừa họa ý vừa họa đủ năm vần.
Trong lịch sử thơ của nước ta, số bài xướng họa thể thơ Song thất lục bát và Thất ngôn tứ tuyệt khá hiếm.
Tản Đà là người đầu tiên họa bài thơ Song Thất Lục Bát “Tản Đà Cốc Tử” của Tú Mỡ, theo đúng ý và vần của thể thơ này.
Nhưng có hai bài tứ tuyệt bằng chữ Nôm rất xưa lại rất nổi danh, chắc các bạn ai cũng biết. Đó là:
Bài xướng của Nguyễn Trải:
Ả ở đâu nay bán chiếu gon?
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn?
Xuân thu nay độ bao nhiêu tuổi?
Đã có chồng chưa, được mấy con?
Và bài họa của Nguyễn Thị Lộ:
Tôi ở Tây hồ bán chiếu gon
Nỗi chi ông hỏi hết hay còn
Xuân thu tuổi mới trăng tròn lẻ
Chồng còn chưa có, có chi con!
Rõ là bài họa hợp ý với những câu hỏi của bài xướng và hợp vận với cả ba vần của một bài tứ tuyệt “gon, còn, con”
Như vậy vào thưở ban đầu họa thơ của làng thơ xứ ta, các nhà thơ đều thống nhất phải hợp ý khi họa thơ; còn về hợp vận, có khi hợp đủ vận của thể thơ thất ngôn Đường luật, có khi chỉ hợp với vần của chữ cuối câu đầu.
Mãi đến thời Quách Tấn rồi sau đó Diên Hương cùng một ý soạn lại rồi viết ra quy định họa thơ trong quyển “Phép Làm Thơ” xuất bản năm 1963. Có thể do đó Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức, Lê Ngọc Trụ xuất bản năm 1970 đã giải thích chữ “Họa Thi (thơ)” là “Làm thơ theo ý và điệu một bài do người khác làm trước”. Nói tóm tắt, từ ngày ấy thi nhân khi muốn họa thơ đã biết quy định về họa ý và họa vận.
Tôi đưa ra những “chuyện xưa” dài dòng như thế chỉ để nhắc lại ý nghĩa của việc họa thơ mà một số người làm thơ ngày nay có thể đã “lơ là”…!
Thật tế ngày nay có nhiều người lập ra những nhóm thơ với quan niệm cùng nhau làm thơ “chỉ để vui là chính” nhất là khi tuổi đã về chiều, việc gì phải khúc mắc xét nét! Và có thể do vậy tôi đã đọc được nhiều bài thơ tuy gọi là xướng- họa với nhau mà các tác giả cứ “tự do” bay bổng theo ý tưởng và vần điệu có trong đầu của mình, không muốn bị gò bó theo luật lệ.
Nếu đã như vậy, theo tôi khi đọc một bài thơ hay, muốn cùng “họa” cho vui mà không muốn tuân theo luật họa thơ đã được quy định bởi những người đi trước, thì người làm thơ không nên tự cho là “họa thơ” mà nên ghi bằng từ khác, thí dụ “hợp xướng thơ”. Về nhạc, trong các thể loại ca có “hợp xướng” của ca thì trong thi có “hợp xướng thơ” của thi cũng đúng chứ?! Hãy để chữ “họa thơ” cho những người muốn xướng họa thơ theo quy định và theo ngữ nghĩa mà tự điển đã ghi!
Vì muốn làm cho rõ chuyện họa thơ, tôi đã viết dài dòng như thế. Thật ra tám bài gọi là thơ họa cho bài “Sự Đời” trên, nếu được đăng riêng lẻ, do các tác giả làm thơ bằng cảm hứng sáng tác riêng, không phải để họa ý và họa vận với bài xướng… thì tất cả tám bài đều là những bài thơ hay, có bài rất hay, chỉ có thể khen, không chê vào đâu được!
Lại cũng hay là khi viết tới đây, tôi sẽ khỏi phải nhắc lại nữa chuyện hai năm trước của bài “Sự Đời”, vì tôi mới đọc năm bài thơ xướng họa. Bài thơ “Đêm Tĩnh Lặng” của Long Phạm, đăng gần đây, ngày 31/12/2022 có bốn bài họa đều rất hay. Bài xướng có ý thơ tả cảnh buổi tàn đông và tả tình là nỗi nhớ niềm thương của nhà thơ. Các bài họa nói chung đúng ý với bài xướng và đúng vận với đủ năm chữ “đông, hồng, sông, lòng, không”. Tôi thấy vui trong bụng. Chỉ có một điều tôi còn hơi “ái ngại”. Tác giả bài xướng “ra đề” khó quá cho những người muốn họa thơ! Trong hai câu tả cảnh của bài xướng có hồ thu, có dãy núi… khiến các nhà thơ xứ vườn Chợ Lách rõ ràng đành phải “nhịn” cho qua, vì làm gì thấy được trước mắt cái hồ, cái núi để “xúc cảnh sinh tình”! Lại nữa nước sông Cổ Chiên và rạch Lách đục ngầu phù sa, làm sao thấy được cảnh “soi bóng sao mờ”…!
Dầu sao các bạn nên xem để thưởng thức những bài thơ đúng nghĩa xướng-họa này!
LX tháng 1/ 2023
Nhận xét
Đăng nhận xét