PHÒNG MẠCH CỦA TÔI
Tôi học ĐH Y khoa Sài Gòn bảy năm, 1968-75. Khi lớp chúng tôi vừa xong chương trình học cũng là lúc chấm dứt chiến tranh. Bọn chúng tôi, nhất là các bạn quân y cùng khóa, phân vân lo lắng không biết chính quyền mới sẽ đối xử với mình như thế nào! Trong khi chờ đợi nhà nước định đoạt, chúng tôi ai đang ở bệnh viện nào thì tiếp tục làm việc ở bệnh viện đó. Làm việc suốt cả năm trời không có lương. Trong thời gian này chúng tôi thỉnh thoảng phải học chính trị chính khóa và đi lao động XHCN theo chương trình được cấp trên sắp xếp. Riêng tôi tiếp tục làm công việc một Nội Trú tại BV Từ Dũ. Đầu năm 1977 tôi được chuyển qua làm việc 6 tháng tại BV Nhi Đồng trước khi được phân công nhiệm sở.
Đến giữa năm đó chúng tôi ký cam kết “Sẵn sàng đi bất cứ nơi nào tổ quốc cần” và sau đó được Bộ Y Tế phân công đi làm việc ở các địa phương. Về An Giang, bọn chúng tôi có 6 người gồm tôi, Trương Quang Trung, Hồ Đào, Vũ Minh Chí, Phạm Văn Bé, Trần Kiên.
Lúc đầu Ty Y Tế An Giang bố trí tôi làm việc tại Khoa Nhi của Bệnh viện đa khoa trung tâm tỉnh ở Long Xuyên. Sau gần 1 năm, do chị bác sĩ Khoa Sản vượt biên nên tôi được chuyển qua Khoa Sản và là bác sĩ độc nhất ở khoa này. Chị trưởng khoa Sản là y sĩ kháng chiến.
Bệnh viện tỉnh vào năm 77 có rất ít bác sĩ. Số bác sĩ cũ của bệnh viện (gọi là bác sĩ ngụy) thì hoặc là đi học tập cải tạo hoặc đã vượt biên rồi, chỉ còn lại chừng 1/3. Vài anh bác sĩ từ Bắc vào chi viện thì làm lãnh đạo, trình độ chuyên môn của các anh không cao. Số y sĩ từ chiến khu về thì nhiều hơn, phụ trách các khoa- phòng- đoàn thể. Nói chung trình độ họ cũng yếu nên công việc khám và trị bệnh hầu hết do các “bác sĩ ngụy” và các cán sự điều dưỡng cũ đảm nhiệm!
Tôi học trường y khoa SG trước 75 nên gần như cũng được coi như các “bác sĩ ngụy”. Vì thế nói chung các lãnh đạo bệnh viện và Ty Y tế lúc đầu không tỏ ra thân thiện với chúng tôi lắm! Cũng may là tôi đã được học khá nhiều suốt 7 năm học y khoa, trong đó có 3 năm làm nội trú các bệnh viện, sau đó là 2 năm “nội trú kéo dài” tại BV Từ Dũ trong khi chờ cấp trên quyết định phân công. Do đó khi về An Giang tôi đã làm “được việc” ngay, nổi tiếng sớm! Người dân vùng Hòa Hảo đó công khai biểu lộ sự vui mừng những khi họ có bệnh được “ông bác sĩ ngụy trẻ” chữa trị. Từ từ tôi cũng có được “uy tín” với cấp trên và cảm tình của các đồng nghiệp cựu kháng chiến!
Sau năm 77, một số bác sĩ “ngụy” còn lại vẫn lén lút vượt biên từng người cùng gia đình họ khiến sự thiếu hụt bác sĩ điều trị ngày càng trầm trọng, nhất là khi cuộc chiến Tây Nam nổ ra cùng lúc với mùa nước nổi 78-79. Tình trạng thiếu bác sĩ trong những năm đó xảy ra không phải chỉ ở An Giang mà ở khắp các tỉnh miền Nam.
Trong những năm đói kém đó các bác sĩ “ngụy” và cán sự điều dưỡng cũ ở các BV tỉnh cũng như BV thành phố đã chứng tỏ được khả năng trình độ của mình trong việc khám chữa bệnh dầu điều kiện và phương tiện làm việc rất thiếu thốn!
Có lẽ nhìn ra điều này (và không muốn các bác sĩ bỗng nhiên “biến mất” thêm) nhà nước tỏ vẻ “cởi mở” hơn, tuy còn cấm các hoạt động kinh tế tư nhân nhưng không “làm khó” việc các bác sĩ lén lút làm thêm tại các phòng mạch tư để có thêm thu nhập vì đồng lương quá ít ỏi!
Cũng nên nói thêm là về sau các bác sĩ từ các trường y khoa miền Nam trước 75 lần lần được “chính quy hóa” theo chương trình của chế độ mới, được học chuyên khoa, sau đại học và được bổ nhiệm các chức trưởng, đầu tiên là trưởng khoa, trưởng phòng rồi phó giám đốc BV. Một số ít được bổ nhiệm tới chức giám đốc. Trong khi đó các cán sự điều dưỡng được đào tạo trước 75 không được “chiếu cố” như vậy mặc dầu họ cũng là thành phần đã đóng góp rất nhiều trong việc ổn định công tác khám, chữa trị trong các BV những năm ngay sau 75. Đến sau năm 82, khi những trường đại học Y dưới chế độ mới đã đào tạo được nhiều chức danh bác sĩ (cả chính quy lẫn chuyên tu) cho các bệnh viện thì các cán sự điều dưỡng cũ coi như đã “xong vai trò”! Họ “bị” đồng hóa vào chức danh “y tá trung học” (từ thời Pháp thuộc, y tá chỉ được xem là người phụ việc cho các bác sĩ), và lần lần bị “bỏ quên”! Họ bị bỏ quên cũng như các đồng nghiệp “y tá” của họ từ bao nhiêu năm trước đến nay vẫn bị coi thường với bậc lương thấp trong khi ngạch “điều dưỡng” tại bệnh viện các nước tiên tiến từ lâu rồi đã được coi trọng và bậc lương khá cao!
Trở lại chuyện của tôi, tôi cũng đã bắt đầu làm phòng mạch tư từ khoảng năm 79. Đầu tiên tôi phải làm “chui” vì trong thời đó (75-85) chính quyền không cho phép các hoạt động kinh tế tư nhân, còn “ngăn sông cấm chợ”! Phòng mạch của tôi chỉ là một phòng khám nhỏ, kín đáo nằm chung trong căn nhà nhỏ của vợ chồng tôi. Tôi có đặt một cái rổ nhỏ ở góc phòng để khi khám bệnh xong ai muốn cho tiền thì cứ bỏ vào rổ, cho bao nhiêu cũng được, mà không cho cũng được!
Rồi nhận thấy chính quyền không “phản ứng” gì, lần lần tôi cơi nới cái phòng to hơn một tí, trang bị nhiều dụng cụ y khoa hơn. Khi khám bệnh xong tôi chích thuốc và cho luôn thuốc uống để người bệnh đem về nhà uống. Không có ấn định tiền khám nhưng người bệnh phải trả tiền thuốc do bác sĩ tự tính. Trước cửa nhà tôi (cũng là cửa phòng mạch) có treo một bảng nhỏ ghi BS Sửu (không ghi cả tên họ) để người bệnh dễ tìm.
Phòng mạch của tôi mở cửa cả sáng, trưa, chiều, sau những giờ làm việc tại bệnh viện. Riêng buổi sáng tôi thường phải mở cửa khám bệnh sớm vì có nhiều người bệnh từ các xã huyện xa xôi, đường bộ đi lại khó khăn, lên ghe từ 1-2 giờ sáng đi theo đường thủy, đến 4-5 giờ thì ghe tới chợ Long Xuyên. Họ chờ trước cửa nhà tôi vào giờ sớm như thế để được khám chữa bệnh rồi sau đó tiện thể ra chợ mua sắm đồ cần dùng cho gia đình, đến 7-8 giờ sáng lại ra ghe trở về địa phương để về tới nhà vào buổi trưa hay đầu buổi chiều! Khi biết họ cực khổ đi về như vậy, tôi luôn luôn muốn khám bệnh sớm cho họ để họ còn trở về nhà sớm!
Vào khỏang 84-85, nhà nước bắt đầu công nhận chuyện các BS “làm thêm ngoài giờ hành chính”, bảng hiệu phòng khám của tôi mới được ghi đầy đủ tên họ và chuyên khoa của mình trên một cái bảng độ 8 x 15dm theo đúng quy cách hướng dẫn của Sở Y Tế. Đến khi có chính sách “đổi mới”, nền kinh tế đất nước phát triển nhanh và mạnh hơn, tôi cũng sửa chữa nhà để xây dựng phòng khám quy mô hơn, đúng quy cách hơn, có trang bị cả máy siêu âm… Tuy nhiên phòng khám của tôi (bây giờ gọi là phòng khám bệnh ngoài giờ) vẫn “khiêm tốn” hơn các phòng khám của người khác.
Sau này nhà nước ban hành nhiều quy định chặt chẽ về vệ sinh vô trùng, bảo vệ môi trường, phòng cháy chữa cháy… nên các bác sĩ về sau thiết kế phòng khám bệnh ngoài giờ của mình quy mô hơn, đẹp hơn. Một số người có tiền thì xây dựng rất “hoành tráng”! Cách làm việc tại các phòng mạch tư cũng có phần khác trước, mang tính “dịch vụ”, không còn cái không khí “tình thân gia đình” như trước. Chi phí khám chữa bệnh mà người bệnh phải trả cao dần. Một số (khá đông) bác sĩ bây giờ biết cách lôi kéo người bệnh từ bệnh viện công ra điều trị tư, biết tìm cách tính tiền khám bệnh cao, biết khai thác các kỹ thuật hay dịch vụ “hot”, tận dụng các trang thiết bị đắt tiền theo thị hiếu người bệnh, và biết cách “hợp tác” với các Labo thuốc để hưởng hoa hồng tiền thuốc…, không “ngây ngô” như tôi ngày xưa!
Khi tới tuổi nghỉ hưu (60), không còn làm việc tại BV công, tôi vẫn còn làm phòng mạch tư thêm vài năm rồi cũng quyết định đóng cửa phòng mạch. Có nhiều lý do khiến tôi quyết định đóng của “hơi sớm” phòng mạch của mình. Trong đó có lý do là tôi không muốn bị lôi kéo vào “vòng xoáy” của những sự “kiếm tiền” từ người bệnh như thế!
Long Xuyên, tháng 4/ 2025
Nhận xét
Đăng nhận xét